Ông Phạm Tuấn Anh (biệt danh Gấu) sinh năm 1976 tại Bắc Ninh và lớn lên ở Hà Nội. Ông đến Mỹ năm 1997, bắt đầu học cao học năm 1998, và sống tại Washington DC từ năm 2004.
Số phận đã sắp đặt một cách khác thường để chàng trai Gấu mới 19 tuổi được Đại biện Hoa Kỳ Desaix Anderson (vai trò như Đại sứ Hoa Kỳ lúc hai nước chưa bổ nhiệm đại sứ) mời làm người phiên dịch. Nhờ thế mà Phạm Tuấn Anh đã là một chứng nhân của tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ ngay từ buổi đầu.
Năm 1998, ông nhận được học bổng và theo học tại trường Ngoại giao và Hành chính Công mang tên Tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ là Woodrow Wilson thuộc đại học danh tiếng Princeton.
Sau này, ông từng làm việc cho Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trước khi làm người tư vấn cho Chính phủ Hoa Kỳ, rồi sáng lập và quản lý Trường Minh Việt (MVA) tới nay.
Video chương trình Đối thoại đầu tuần, chủ đề "Việt Nam – Cơ hội và lối rẽ của một nền kinh tế", do Báo Đầu tư thực hiện với sự tham gia của ông Phạm Tuấn Anh cùng hai Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) là ông Nguyễn Đình Lương và ông Joe Damond, phát sóng ngày 29/8/2022, nhân dịp kỷ niệm 77 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2022).
Ở Việt Nam, người ta biết đến ông Phạm Tuấn Anh rõ nhất trong vai trò là người phiên dịch cho Tổng thống Obama và Phó tổng thống Biden trong chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ hồi tháng 7/2015. Cuộc hội đàm của Tổng thống Obama với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phòng Bầu dục của Nhà Trắng là sự kiện lịch sử đánh dấu mốc 20 năm hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao và 2 năm hai nước thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện.
Tiếp đó, vào tháng 5/2016, ông lại là phiên dịch cho Tổng thống Obama trong chuyến thăm Việt Nam. Ông cũng được biết chính là người đề xuất những câu thơ Kiều được trích dẫn trong những bài phát biểu “lay động trái tim người Việt” của các lãnh đạo Hoa Kỳ. Ngoài ra, ông còn là người phiên dịch, người kết nối trong nhiều cuộc gặp, sự kiện quan trọng khác giữa lãnh đạo Việt - Mỹ trong những năm qua.
Cuộc đời ông Phạm Tuấn Anh trong 25 năm qua là một chuyến đi dài và thú vị, như cách ông nói, đó là một “hành trình ánh sáng” nhiều ý nghĩa. Hành trình này không chỉ thú vị ở mức độ cá nhân, mà còn có ý nghĩa công cộng tốt đẹp đáng ngưỡng mộ đến từ những nỗ lực của ông chung tay bồi đắp quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Là một đứa trẻ nhà nghèo từ Việt Nam bước chân đi ra thế giới trong hành trình ánh sáng, được đến tận Nhà Trắng là trung tâm của quyền lực thế giới, ông nói trong lòng ông luôn tràn ngập cảm giác biết ơn. Dường như có một năng lực siêu nhiên, tâm linh nào đó đã dẫn dắt cuộc đời ông đi xuyên qua bao ma trận để đến được nơi đồng xanh có hoa trái ngọt lành.
Sự biết ơn những nguồn ánh sáng soi đường khiến ông khát khao và tự đặt cho mình trách nhiệm giúp cho nhiều người trẻ Việt Nam đi ra thế giới thành công. Từ năm 2000, ông đã giúp cho hơn 20 bạn trẻ Việt Nam tới Mỹ học tập và thành đạt.
Để mở rộng mô hình này, tháng 7/2019, ông Phạm Tuấn Anh đã sáng lập trường Minh Việt (Minh Việt Academy - MVA) là trường học Mỹ trực tuyến học phí thấp kết nối các giáo viên Mỹ với học trò Việt Nam.
Chương trình học này giúp cho trẻ con nhà nghèo Việt Nam cũng có thể hưởng nền giáo dục tiên tiến của Mỹ, để chuẩn bị cho các em trở thành công dân toàn cầu mà không phải đi ra ngoài sớm, không mất đi mối dây gắn bó với quê hương Việt Nam khi còn quá trẻ.
Tham vọng của ông là trong 30 năm tới sẽ đưa được 10.000 bạn trẻ Việt Nam ra thế giới để họ làm việc trong các công ty, các viện nghiên cứu và đại học, các tổ chức toàn cầu, và các chính phủ thế giới.
Xưa nay, dù được tham gia những sự kiện quan trọng, được đi dịch cho chuyến thăm của Tổng thống Clinton xưa hay của Tổng thống Obama sau này, ông Phạm Tuấn Anh luôn đưa ra lý do hợp lý để từ chối trả lời phỏng vấn của báo chí. Ông luôn nhận mình chỉ có vai trò khiêm nhường không có thành quả gì lớn để khoe.
Nhóm phóng viên Báo Đầu tư đã thuyết phục ông rằng, câu chuyện cuộc đời ông có thể là nguồn cảm hứng tích cực cho những người trẻ Việt Nam đến từ các gia đình nghèo để họ dũng cảm đi ra thế giới. Lý do này đã thuyết phục được ông đồng ý dành cho Báo Đầu tư một cuộc phỏng vấn độc quyền.
Chúng tôi đã có ba buổi trò chuyện kéo dài tổng cộng gần 10 tiếng với ông Phạm Tuấn Anh. Ông luôn tỏ ra khiêm tốn, nhã nhặn, lịch lãm thể hiện qua giọng nói ấm áp, truyền cảm. Chúng tôi bị cuốn theo mạch chuyện của ông mà nhiều lúc quên đi những câu hỏi chuẩn bị sẵn.
Những điều ông kể dường như được lấy ra từ một cuốn sách lịch sử đầy ắp trải nghiệm, kỷ niệm, triết lý sống nhân văn lay động lòng người. Xuyên suốt trong cuốn sách đó là tình yêu quê hương đất nước Việt Nam.
Chúng tôi xin gửi tới bạn đọc câu chuyện của một nhân vật Việt Nam khá đặc biệt, người hay tự nhận mình chỉ may mắn như một “chàng Lọ Lem”, hay đùa rằng mình chỉ là một “chàng ngốc” con nhà nghèo may mắn được các đấng thần linh tổ tiên Việt Nam phù hộ độ trì cho được bước chân đi trên hành trình thế giới, một thứ hành trình ánh sáng với mục đích cuối cùng là mang chỉ những điều tốt đẹp về cho đất nước Việt Nam. Đây là một câu chuyện về lòng trung thành, sự tận tâm, tinh thần hiến dâng cho quê hương được xếp đặt hài hòa trong tình yêu nhân loại.
Bỏ hết việc học tiếng Anh theo kiểu trường lớp và tự đi học “Đại học chùa Một Cột”, cậu bé nghèo Phạm Tuấn Anh đã tự mở lối cho mình đi ra thế giới trên hành trình ánh sáng với nhiều vinh quang rực rỡ sau này.
Thưa ông, ở thời điểm những năm 90 của thế kỷ trước, hẳn ông phải là con nhà khá giả nên mới có điều kiện học giỏi tiếng Anh?
- Ồ không! Hoàn toàn ngược lại, thưa chị.
Tôi sinh tại thị xã Bắc Ninh năm 1976 trong gia đình hai bố mẹ đều là cán bộ. Bố tôi từng học đại học tại Leningrad ở Liên Xô cũ và là giảng viên Đại học Sư phạm I trước khi vào quân đội năm 1972. Mẹ tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm I thì làm giáo viên các trường cấp 2 tại Bắc Ninh cho tới năm 1984 - lúc em trai tôi ra đời và cả nhà chuyển về Hà Nội sống cùng bố.
Thời đó, có thể nói bố mẹ tôi đều là những người tạm gọi là trí thức trẻ ưu tú nhưng năm 1984 khi chuyển về Hà Nội, gia đình sống trong một túp lều mái tranh dựng tạm bợ vào tường cơ quan quân đội của bố mẹ tôi. Trong nhà không bao giờ có tài sản gì quý giá hơn một cái xe đạp cũ và chiếc giường đôi bốn người nằm chung.
Tôi lúc lớn lên gầy gò, không bao giờ có nhiều hơn hai cái quần dài để thay đổi, còn áo sơ mi thì lẫn cả đồ bộ đội, công an mà họ hàng thương cho. Đói ăn, học hành làng nhàng, lúc đó tôi không có một thứ gì hữu hình hay vô hình có giá trị cả.
Tôi được bố dạy chút tiếng Nga ở nhà từ khi 8 tuổi, nhưng cũng chỉ biết dăm câu ba điều chứ không phải giỏi giang gì. Hè trước khi vào lớp 10 là năm 1989, tôi được bố mẹ cho đi học lớp tiếng Pháp buổi tối ở Trần Phú, nhưng hết học kỳ 1 lớp 10 kết quả học tập không ra sao nên bố phạt bảo nghỉ học tiếng Pháp đi.
Lúc Đông Âu có biến động chính trị bố tôi nói với tôi: “Tiếng Nga giờ e là mất giá trị rồi. Thế giới thay đổi, Việt Nam chắc sẽ tiến gần phương Tây. Giờ nên biết tiếng Anh”. Bố cho tôi tiền đi học thêm tiếng Anh ở trung tâm, nhưng đang mê tiếng Pháp, nên tôi học tiếng Anh không vào.
Tháng 5/1990, tôi và một người bạn cùng lớp phấn khởi tới thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh ngày khai trương. Tình cờ lúc về qua chùa Một Cột, chúng tôi gặp một khách du lịch người Anh đang sống ở Malaysia. Thấy ông khách khoe là nói được mấy thứ tiếng, tôi rất muốn nói một câu khen kiểu như: “Bác nói được nhiều ngoại ngữ quá nhỉ!”. Tôi rất ngượng khi không thể nói được câu tưởng như đơn giản đó dù đã học tiếng Anh được mấy tháng.
Lúc đó tự nhiên tôi thấy nhói lên cảm giác áy náy và thương bố mẹ vì nhà thì nghèo mà tiền học tiếng Anh buổi tối cũng đâu rẻ. Bố mẹ thì phải chật vật, xoay xở tằn tiện từng đồng lương mà mình lại học hành chẳng ra làm sao.
Xấu hổ quá nên tôi quyết định luôn là từ nay sẽ tự học bằng cách ra khu Lăng Bác và chùa Một Cột để nói tiếng Anh với khách du lịch nước ngoài chứ không đi học trung tâm tốn tiền của bố mẹ nữa.
Thời đó chưa có công nghệ học tập hiện đại như bây giờ, việc tự học tiếng Anh chắc hẳn không dễ phải không ạ?
- Đúng là khó hơn bây giờ nhiều, nhưng nếu tìm được cách thức phù hợp thì cũng dễ và vui hơn.
Tôi đã bỏ hết việc học tiếng Anh theo kiểu trường lớp mà chỉ đi học “Đại học chùa Một Cột”. Từ năm 1990 - 1995, ngày nắng cũng như ngày mưa, kể cả năm 1992, sau khi nhập học Đại học Ngoại thương, tôi vẫn dành thời gian cả ngày chủ yếu là ở khu vực có nhiều khách du lịch nước ngoài qua lại này để chơi và nói tiếng Anh với các bạn Tây ba lô.
Ban ngày, tôi nói chuyện bằng tiếng Anh với khách du lịch, tối về lại đọc sách tiếng Anh để hôm sau có từ và ý để nói. Gặp bạn nào tốt tính thì tôi xin bạn địa chỉ để hàng ngày viết thư. Có lúc, tôi viết thư giao lưu với cả mấy chục người ở các nước. Chỉ 6 tháng sau, tôi nhận ra tiếng Anh của mình đã tốt lên không thể tin nổi.
Bước chuyển biến lớn nhất, quan trọng nhất chính là việc tôi bắt đầu chuyển qua đọc gần như chỉ sách tiếng Anh. Những người bạn khách du lịch ba lô thường luôn mang theo những cuốn tiểu thuyết paperback in bằng giấy mỏng, nhẹ, tiện cho người ta đọc khi đi du lịch. Khi gặp cậu bé Việt Nam hiếu học, họ thường tặng lại những cuốn sách đó. Khi đó, sách truyện bằng tiếng Anh vẫn còn rất hiếm nhưng tôi thu thập được hàng trăm cuốn sách theo cách đó.
Tôi mất mấy tháng để đọc xong cuốn tiểu thuyết tiếng Anh đầu tiên, nhưng rồi cứ đọc thì việc đọc trở nên dễ dàng hơn nhiều. Mỗi cuốn sách như một cửa sổ giúp tôi nhìn ra thế giới bên ngoài, qua đó tôi học được từ ngữ, phong tục, văn hóa của các quốc gia, và quan trọng là bắt đầu hấp thu tinh thần thế giới.
Khi tiếng Anh đã tốt, đôi lúc tôi cũng làm cả công việc của hướng dẫn viên du lịch để kiếm chút tiền tự trang trải và đỡ đần cho gia đình. Tôi đã kiếm được những đồng tiền đầu tiên (một tờ 10 USD và một tờ 5 USD) từ công việc này vào năm 1991 lúc giữa năm lớp 12 ở Trường Trung học Chu Văn An.
Bố mẹ tôi nhiều lần, ngay cả đến bây giờ, thỉnh thoảng vẫn nói rất thương con trai phải ra đời kiếm sống từ lúc 14-15 tuổi nhưng tôi nhìn lại thì thấy rất biết ơn thời gian đó và những người đã thương quý mình khi xưa.
Thời gian 5 năm tự trau dồi tiếng Anh ở khu vực chùa Một Cột là những tháng ngày tôi không thể nào quên. Những anh lính thuộc Bộ Tư lệnh Lăng, những anh an ninh bảo vệ bảo tàng, các chị các cô bán hàng ở các quầy lưu niệm, và những đứa trẻ ngoan là tôi và mấy người bạn thân lúc đó hội lại thành một cộng đồng vui vẻ và quý mến nhau. Tới giờ là 27 năm sau tôi vẫn nghĩ về họ với những tình cảm yêu quý và tôi tin là những người cũ đấy cũng vẫn yêu mến tôi.
Tôi rất tò mò cơ duyên nào giúp ông lại trở thành phiên dịch viên cho Đại biện Hoa Kỳ tại Việt Nam khi còn rất trẻ?
- Sau một thời gian đi nói chuyện, đọc sách, viết lách, tiếng Anh của tôi lên rất nhanh và tôi bắt đầu được thuê đi phiên dịch. Những năm 1994-1995, người nói tiếng Anh cập nhật, tức là thứ tiếng Anh sống động của thế giới, ở Hà Nội còn ít nên việc dịch rất nhiều. Tôi còn trẻ lại coi tiền bạc không phải là quan trọng, kiến thức cũng có nên người ta tìm đến mời dịch rất nhiều.
Ngay từ năm 1994, tôi đã bắt đầu làm việc tình nguyện cho Tổ chức Phẫu thuật Nụ cười (Operation Smile) là tổ chức từ thiện của Mỹ hàng năm gửi các bác sĩ Mỹ sang mổ miễn phí cho trẻ em có dị tật mặt như hở môi, hở hàm ếch.
Cuối năm 1995, tôi đã làm phiên dịch tình nguyện viên cho một buổi tiếp tân tại khách sạn Metropole nhân kết thúc đợt phẫu thuật của các bác sĩ Phẫu thuật Nụ cười. Khi tôi dịch xong, có một người đàn ông phương Tây lớn tuổi tới khen tôi dịch tốt và hỏi liệu tôi có muốn đi dịch cho bác không. Tôi lễ phép hỏi là: “Thưa bác, bác là ai?” Vị ấy đưa danh thiếp và tôi được biết đó là Đại biện Hoa Kỳ Desaix Anderson mới đến Hà Nội để lãnh đạo văn phòng liên lạc Hoa Kỳ. Tôi tất nhiên đã quá hân hạnh nên vui vẻ nhận lời.
Khoảnh khắc đó chính là khoảnh khắc thay đổi cuộc đời, chuyển hướng đột ngột biến tôi từ một đứa trẻ long nhong vừa qua tuổi 19, chỉ giỏi chút tiếng Anh và hay đi dịch dạo kiếm chút tiền giúp mẹ thành một người bắt đầu có ý thức xã hội, bắt đầu học cách áp dụng kiến thức lâu nay đọc được từ sách vở vào phân tích các sự việc xung quanh.
Trong vai trò phiên dịch viên hợp đồng của Phòng Liên lạc Hoa Kỳ, tôi được đi cùng bác Đại biện tới gặp nhiều lãnh đạo Việt Nam từ trung ương đến địa phương. Qua công việc, tôi cũng được gặp những người ở cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ giờ đã thành các nhân vật nổi tiếng, ví dụ Đại sứ Mỹ Ted Osius của Mỹ hay Đại sứ Vũ Quang Minh của Việt Nam. Những người anh này lúc đó mới chỉ là những cán bộ ngoại giao trẻ tuổi.
Trong gần hai năm sau đó cho tới lúc bác Desaix rời Hà Nội (5/1997), tôi may mắn được đi với bác nhiều nơi, gặp nhiều người, nói nhiều chuyện thời đó được coi là thâm cung bí sử. Bác Desaix đã dạy cho tôi những bài học đầu tiên về ngoại giao, chính trị, đưa tôi thành một người tin vào tự do, bình đẳng, bác ái, về cống hiến cho sự nghiệp chung.
Hai năm làm việc với bác mới chính là hai năm đại học thực sự của tôi. Ở tuổi 19, lúc người ta còn đang là đứa trẻ ranh, tôi được tin cậy thay mặt bác nói những lời tình cảm chân thành bằng tiếng Việt với các vị lãnh đạo Việt Nam.
Tôi dù trước đó đọc nhiều nhưng chưa tranh luận, viết lách để ý kiến được thử thách trong phản biện nên lời lẽ giọng điệu chắc vẫn là của “trẻ trâu hung hăng”. Hai bác cháu đã có những tranh luận rất nóng về chiến tranh Việt Nam, về bầu cử Campuchia, về biển Đông và tam giác quan hệ Mỹ - Trung - Việt, hay về quan hệ Liên Triều.
Bác Desaix không bao giờ mất kiên nhẫn với tôi, liên tục uốn nắn, chỉ bảo, giải thích. Về sau này, càng lớn tôi càng biết mình từng cãi dốt thế nào. Bác Desaix đã từng là Phó Trợ lý Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ phụ trách Đông Dương rồi Đông Á, Phó Đại sứ Mỹ tại Nhật Bản…
Bác Desaix là người thầy, người bạn, người đỡ đầu trung thành, trung thực, bao dung, chân thành, và là một người theo đảng Dân chủ. Tôi được học những năm tháng đầu đời với người thầy đó thì tất nhiên không thể đi con đường nào khác. Nhờ có Desaix, tôi mới có Princeton, nhờ có Princeton mới có Cairo, Beirut, Bắc Kinh, Bình Nhưỡng, IMF, WB, mới có vợ rồi hai con trai, rồi mới có Obama và Biden, mới có phòng Bầu Dục và những buổi làm việc kỳ thú ở Nhà Trắng.
Bác Desaix qua đời năm 2021 để lại trong lòng tôi niềm thương tiếc khôn nguôi.
Có được mối quan hệ với ngài Đại biện Hoa Kỳ tại Việt Nam, hẳn con đường đi học cao học của ông tại Mỹ không quá khó khăn?
- Bác Desaix là một cựu sinh viên Đại học Princeton và khi quay lại Mỹ, bác đã được mời dạy một khóa học thường niên cho sinh viên đại học Princeton về Việt Nam và Đông Á. Ở Hà Nội lúc đó có một người bạn Việt kiều khác là anh Lý Trần làm việc ở Citibank cũng là một cựu sinh viên Princeton. Hai người đó thương quý tôi và anh Lý thường xuyên thúc giục tôi nộp đơn đi học cao học ở Princeton.
Trong chuyến đi đầu tiên của tôi rời Việt Nam sang Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1997, anh Lý đã giới thiệu và tôi may mắn được tới thăm trường Princeton rồi được gặp Giám đốc Tuyển sinh của trường hành chính công và ngoại giao mang tên Woodrow Wilson (WWS) thuộc Princeton là ông John Templeton.
Ông John đã đưa tôi đi tham quan trường và cho tôi tham gia một buổi thảo luận của các sinh viên chương trình mùa hè. Chuyến thăm này gây ấn tượng với tôi tới mức mà mùa thu năm đó tôi quyết định chỉ nộp đơn duy nhất xin học chương trình MPA (Thạc sĩ về Hành chính Công) của trường WWS.
Mùa xuân năm 1998, ông John đã gửi cho tôi một thư viết tay thông báo về việc tôi đã được nhận vào học. Vào tháng 8/1998, tôi quay trở lại WWS trong vai trò một tân sinh viên cao học. Thú thực là do có cả bác Desaix và anh Lý giới thiệu nên tôi được hưởng nhiều thuận lợi khi xin học.
Tôi nhớ tháng 8/1998 lên đường sang Mỹ học trong túi chỉ có 500 USD bố mẹ cho. Mỗi tháng Princeton cho tôi 1.100 USD để lo việc ăn ở. Tiền học của cả tôi và sau này là em trai tôi là Phạm Tuấn Minh đều là học bổng các đại học Mỹ cho chứ bố mẹ tôi là cán bộ mẫn cán chỉ trông vào đồng lương nhà nước thì không thể có đủ tiền để cho hai anh em đi học ở Mỹ.
Vì những lý do ngẫm lại thật ngớ ngẩn, tôi học ở đó hết năm đầu thì bị trường đuổi học khiến tôi phải đi lang thang thế giới từ Ai cập, Li băng, Thái Lan, Trung Quốc cho tới tận ba năm sau là tháng 9/2002, thì trường Princeton mới đồng ý nhận tôi vào học lại.
Theo tôi biết thì hình như ông là người duy nhất ở Princeton bị đuổi học và lại được nhận vào trường trở lại. Đó hẳn là một kỷ niệm đáng nhớ trong cuộc đời ông?
Hoa Kỳ và Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao đâu mới chỉ hai năm trước khi tôi tới thăm Princeton lần đầu năm 1997. Dù là trước đó tôi cũng đã được tham gia trong vai phiên dịch hợp đồng cho Phòng Liên lạc Hoa Kỳ vào vài khía cạnh của quá trình tái thiết mối quan hệ mới khôi phục, tôi thú thật còn rất xa lạ với cung cách Mỹ nói chung. Dù đã đọc hàng trăm cuốn sách Mỹ nhưng do chưa từng sống ở Mỹ nên tôi vẫn có nhiều câu hỏi về Mỹ hơn là câu trả lời.
Kiến thức học được từ nền giáo dục Việt Nam cũng không chuẩn bị tốt cho tôi đến học trong môi trường đòi hỏi cao của Princeton. Mới 21 tuổi đi xa Việt Nam lần đầu, tôi cô đơn và nhớ quê nhiều lắm. Xong rồi để đối phó với những thách thức trong môi trường mới và xa lạ thì tôi lại chọn cách thu mình vào vỏ tự nhấm nháp đau khổ. Kết quả học tập của tôi vì thế tồi tệ đi.
Cuối năm học đầu tiên, chỉ vì không có thiện cảm với một giáo sư mà tôi đã có một quyết định vội vàng ngốc nghếch là bỏ thi cuối kỳ môn của ông ấy. Tôi cứ tưởng giống như ở bên Việt Nam, sinh viên có thể đóng tiền để thi lại lần sau. Lỗi đó đã khiến cho điểm của tôi tuột dốc và đó là nguyên nhân Princeton đuổi học tôi vào cuối hè 1999.
Trong ba năm sau đó, do sợ hãi phải thú thật với bố mẹ về thất bại tại Princeton, tôi bỏ Hà Nội đi tới Ai Cập, Li Băng, Trung Quốc, Triều Tiên để tìm và làm các công việc công ích.
Thất bại ở Princeton quả thực đã buộc tôi phải có một cái nhìn sâu vào trong lòng để xác định những ưu, khuyết điểm, tiềm năng có thể giúp tôi lớn lên.
Người Việt trẻ ít nhất là lúc đó nói chung không nổi tiếng vì khả năng mạo hiểm đi ra để ngắm thế giới, thế nên việc tôi lên đường đi chuyến đi cô đơn mấy năm đó có phần cũng giống như tôi đang thực hiện một nghi thức trưởng thành.
Trong ba năm dài đó, có một hình ảnh luôn xâm chiếm suy nghĩ của tôi, không phải hình bóng cô nào, mà là hình ảnh tòa nhà của trường Woodrow Wilson tên là Giảng đường Robertson (Robertson Hall) được chiếu sáng trong một đêm đông lạnh giá.
Tôi cũng thấm rằng đã mất món quà quý giá phải nói nhất đời tới lúc đó mà số phận ban tặng và mất thế rồi mới biết là trái tim tôi vẫn thuộc về nơi đó. Thú thực là điều duy nhất tôi muốn trong mấy năm lang thang thế giới đó là được trở về học lại ở Princeton.
Khi tôi nộp đơn lần nữa xin vào học trường WWS vào mùa thu năm 2001, tôi có rất ít hy vọng là được trường nhận lại.
Vào đêm ngày 1/4/2002, ông John đã gửi cho tôi một email thông báo rằng WWS đã quyết định cho tôi cơ hội thứ hai. Tôi lúc đó đang ở văn phòng IMF ở Hà Nội, đã gục đầu xuống bàn và khóc. Ba năm tôi đi ra thế giới cố làm những điều tốt đẹp và gắng tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống cuối cùng cũng đã mang lại kết quả.
Đúng như chị nói và theo như tôi biết, tôi là sinh viên duy nhất trong lịch sử trường WWS đã bị đuổi học rồi lại được nhận lại. Cho đến tận ngày hôm nay, tôi vẫn không biết phải cảm ơn những ai vì phép mầu đó mà chỉ biết tâm niệm biết ơn những người ở đó đã tin tưởng mình.
Đại học Princeton xưa có câu khẩu hiệu là “Phụng sự quốc gia - Phụng sự thế giới” (In the service of the nation - In the service of all nations). Trong 18 năm qua kể từ khi tôi tốt nghiệp Princeton, mặc dù suy nghĩ của tôi về công việc công ích và thế nào là “Phụng sự quốc gia - Phụng sự thế giới” đều đã thay đổi, tôi có thể tự hào nói rằng sự trung thành của tôi đối với lý tưởng làm việc công ích của trường chỉ trở nên sâu đậm hơn.
Tôi nghĩ rằng, ông thật may mắn khi được WWS nhận lại, nhưng tôi cũng tin rằng, đó là nhờ nỗ lực, cố gắng của ông suốt 3 năm lăn lộn ở các quốc gia như ông kể và cả sự giác ngộ, trưởng thành vượt bậc của cá nhân ông. Tôi tin rằng, ông rất biết ơn ngôi trường danh giá này?
- Nước Mỹ và người dân Mỹ đã cư xử rất tử tế với tôi. Tôi cho là gốc rễ của mọi thứ tốt đẹp hôm nay tôi có đến từ những người Mỹ làm việc ở trường hành chính và ngoại giao mang tên Woodrow Wilson (WWS) thuộc đại học Princeton.
Thời đó, tôi là một cậu thanh niên trắc nết nhưng may sao những người Mỹ đó vẫn chấp nhận được tôi. Sau này, tôi có biết thêm nhiều trường chính sách công khác của Mỹ nhưng tôi vẫn tin là không có trường nào khác có thể coi tôi như đứa con trong gia đình như cách người ta chăm tôi, chiều tôi ở WWS.
Cách các thầy và nhân viên giáo vụ ở trường cư xử với tôi phản ánh rõ nét triết lý giáo dục của trường về ngoại giao và chính sách công. Triết lý đó trao niềm tin cho những đặc điểm tích cực của con người: tử tế, khiêm nhường, hào phóng, bao dung, nhân phẩm, tôn trọng và tự trọng, quyết tâm làm điều tốt ngay cả khi bị áp bức, sự bất cần của cải vật chất hay danh vị hão huyền. Trường đã kích hoạt những điều tốt đẹp nhất trong đám sinh viên chúng tôi rồi biến tôi thành một người tốt và khiêm tốn hơn lúc ban đầu.
Trong ba năm tôi theo học, trường đã cho tôi 150.000 USD tiền học bổng là số tiền lớn bố mẹ tôi không thể nào chu cấp cho tôi ăn học. Tôi luôn tâm niệm đó là khoản vay mà lúc nào có thể thì tôi phải trả cả gốc lẫn lãi. Mỗi năm sau khi tốt nghiệp tôi đều gửi trường một khoản tiền nhỏ vào quỹ mà cựu sinh viên đóng góp.
Mấy năm trước, gia đình tôi quyết định tặng trường một quỹ nhỏ hàng năm với số tiền biếu tặng mỗi năm một tăng lên. Món quà này chúng tôi đề tặng để vinh danh Đại biện Desaix Anderson. Tiền này, tất nhiên trường muốn sử dụng thế nào thì tùy họ nhưng tôi cũng có nói mong họ dùng để hỗ trợ thêm chút sinh hoạt phí cho các sinh viên cao học người Việt hay làm nghiên cứu về Việt Nam.
Khi tặng món quà này cho trường cũ yêu quý của tôi, tôi gửi những suy nghĩ biết ơn tới những người đã nhìn thấy đứa trẻ ngốc nghếch nhưng chân thành trong tôi. Trường WWS mãi là ngôi nhà thứ hai của tôi sau quê nhà Hà Nội và tôi vẫn tuyệt đối trung thành với sứ mệnh và lý tưởng của trường y hệt cách tôi mãi yêu quý quê nhà Việt Nam.
Sau khi tốt nghiệp ông đã làm những công việc gì? Cơ duyên nào dẫn lối cho ông trở thành phiên dịch viên cho Chính phủ Hoa Kỳ?
- Sau khi tốt nghiệp, tôi đi theo con đường điển hình của những người học ngành tôi học là làm việc phát triển thông qua những tổ chức như IMF và WB.
Năm 2011, khi tôi có thẻ xanh Mỹ thì cũng là lúc quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ nóng lên nhờ chính sách xoay trục về Đông Á và Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tôi nhớ nghề phiên dịch cũ và muốn góp phần thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ nên liên hệ với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Đó là một bước ngoặt khác quyết định những việc vui của đời tôi trong những năm cuối của chính quyền Tổng thống Obama.
Tới tuổi đó tôi cũng đã đủ lớn khôn, và cũng đã sống ở nước ngoài đủ lâu, nên tôi bắt đầu mong được dồn hết sức giúp đỡ đất nước và người dân Việt Nam chứ không phải đi giúp chung chung người nghèo thế giới nữa.
Con người chuyên môn chính sách công trong tôi cũng đã hiểu rằng, phụng sự con người không đơn giản chỉ là mang tới cho họ thực phẩm, nước sạch, hay giáo dục mà tất cả những thứ đó đều cần đặt quanh trọng tâm là phẩm giá con người. Tất cả mọi thứ chúng ta làm trên tiền đề đó, dù là để mang đến cho người ta thực phẩm, sự chăm sóc y tế, hoặc dịch vụ giáo dục đều phải thỏa mãn ý niệm cao quý về cuộc sống đúng nghĩa con người.
Hai năm 2015-2016 mang đến những thành tựu cao nhất của cuộc đời tôi sau khi tốt nghiệp Princeton. Năm 2015, tôi làm phiên dịch viên của Tổng thống Obama khi đón tiếp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ. Năm 2016, tôi được tháp tùng Tổng thống Obama tới Việt Nam trong chuyến thăm chính thức kéo dài ba ngày.
Hai mươi tư năm sau khi ông Phạm Tuấn Anh đến học tại trường đại học số một của Mỹ, dường như nước Mỹ đã gửi ông đi một chuyến đi “vinh quy bái tổ” thật vinh quang với người đưa đưa ông về quê không phải ai khác mà chính là Tổng thống Mỹ. Ông gọi đó là “Chuyến đi cuộc đời”.
Chuyến trở về Việt Nam làm phiên dịch cho Tổng thống Obama năm 2016 hẳn là chuyến đi vô cùng quan trọng trong cuộc đời ông?
- Năm 2000, khi Tổng thống Clinton sang thăm chính thức Việt Nam, tôi cũng được đại sứ quán Mỹ mời dịch cho Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Charlene Barshefsky. Hôm Tổng thống Clinton phát biểu ở Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi ngồi ngay cạnh cabin dịch của người phiên dịch phía Mỹ. Lúc đó tôi rất mong có một ngày được làm phiên dịch cho một Tổng thống Mỹ tới thăm Hà Nội.
Chuyến đi về Việt Nam tháng 5/2016 đánh dấu chặng đường 20 năm kể từ lúc tôi may mắn được tham gia đóng góp chút công sức nhỏ bé vào quá trình hai nước bình thường hóa quan hệ khi được mời làm phiên dịch cho Đại biện Mỹ tại Hà Nội trong nhiều cuộc gặp quan trọng.
Hai mươi năm hai nước bình thường hóa quan hệ cũng là hai mươi năm tôi có một góc cạnh Mỹ ở trong đời. Được học tập ở một trong những đại học hàng đầu của Mỹ rồi ra làm việc và sống ở vùng thủ đô Washington DC, đôi lúc tôi vẫn ngẩn ngơ tự hỏi mối duyên nào đã đưa mình từ đứa bé nghèo Hà Nội đến đây. Tôi hay đùa là tôi là đứa con của quan hệ Việt - Mỹ mới được khôi phục do tôi đã được chứng kiến mối tình Việt - Mỹ phát triển mạnh mẽ như giờ kể từ cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.
Gắn bó với cả hai quốc gia, nên theo lẽ tự nhiên, tôi luôn cố gắng tìm cách thúc đẩy để hai nước trở thành bạn bè thân thiết với nhau. Khi bỏ thời gian, công sức ra giúp hai nước xích lại gần nhau, tôi thấy mình đang bày tỏ lòng biết ơn tới cả quê hương Việt Nam sinh mình ra và nước Mỹ cho mình học hành, bằng cấp hoàn toàn miễn phí.
Tôi vững tin là dù có nhiều điều khác biệt nhưng Mỹ - Việt có thể là bạn tốt của nhau. Sứ mệnh của những người như tôi là thúc đẩy cho tình bạn giữa hai nước được đơm hoa, kết trái để mang lại thịnh vượng và bình yên cho người dân.
Với suy nghĩ, hiểu biết, xuất thân, trình độ chuyên môn, và kinh nghiệm làm việc phiên dịch của mình, tôi luôn mong là khi Tổng thống Obama tới thăm Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước, tôi sẽ được đi cùng Tổng thống. Mong ước đó của tôi đã được toại nguyện với chuyến thăm năm 2016.
Tổng thống Obama, với tư cách là người da màu đầu tiên làm Tổng thống Mỹ, cũng có xuất thân tương đối khiêm tốn và kinh nghiệm làm việc công ích, cộng đồng giống như tôi và vì thế, ngay từ khi ông nhậm chức lần đầu, tôi đã coi ông như một nguồn cảm hứng tích cực.
Riêng việc tháp tùng một Tổng thống Hoa Kỳ trong một chuyến thăm kiểu “về quê” đã là một vinh dự, nhưng vinh dự đấy còn to lớn hơn khi Tổng thống Hoa Kỳ đó lại là người mà mình và người dân nước mình quý mến.
Nhưng tôi thực sự rất tò mò vì sao ở Hoa Kỳ hẳn không ít người Việt giỏi tiếng Anh, nhất là người miền Nam đã định cư ở đây rất lâu, nhưng một người Việt Nam gốc Bắc như ông lại được chọn làm phiên dịch cho Tổng thống Obama?
- Quả thực, tôi không nghĩ tiếng Anh của mình quá giỏi. Mặc dù năm nay là năm thứ 32 tôi nói tiếng Anh gần như hàng ngày, nhưng giọng tiếng Anh của tôi còn lâu mới đúng chuẩn giọng người bản ngữ.
Điểm mạnh của tôi là do lúc lớn lên đã đọc tiếng Anh rất nhiều, vừa đọc vừa phân tích từng câu, từng chữ kỹ càng nên tôi đã phát triển được phản ứng tức thời với lời nói tiếng Anh. Nhờ điểm mạnh này mà tôi có thuận lợi khi dịch đồng thời (dịch cabin) là công việc đòi hỏi người dịch phải hiểu và diễn đạt được lời diễn giả gần như tức thời.
Điểm mạnh này nếu chỉ đứng riêng thì chưa đủ. Khả năng hiểu cặn kẽ tiếng Anh phải đi kèm với kiến thức đa dạng và khả năng xử lý kiến thức tốt. Người dịch có kiến thức và khả năng xử lý kiến thức tốt sẽ làm việc hiệu quả dù bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.
Quay lại câu hỏi của nhà báo về việc tại sao tôi lại được chọn dịch cho Tổng thống Hoa Kỳ. Lý do chính ở đây, theo tôi là các cô chú phiên dịch người Việt đã rời Việt Nam từ lâu và ít có cơ hội tiếp xúc với thứ tiếng Việt ngày nay chúng ta sử dụng ở Việt Nam. Họ không có được sự nhạy cảm với tiếng Việt miền Bắc là ngôn ngữ của hành chính và ngoại giao như tôi đã lớn lên ở miền Bắc. Tiếng Việt của miền Bắc có những khái niệm thay đổi ý nghĩa tùy hoàn cảnh. Người nói chưa nhạy cảm với hoàn cảnh nếu thay đổi cách dịch chút ít có thể gây sự hiểu nhầm ở người nghe.
Sử dụng một người dịch như tôi nói thứ tiếng Việt của miền Bắc đồng thời cũng hiểu thứ tiếng Anh của chính trị và chính sách Hoa Kỳ là một lựa chọn ít rủi ro hơn.
Trước chuyến đi quan trọng như vậy, ông có lo lắng điều gì không?
- Điều tôi lo lắng nhất là có điều gì đó xảy ra khiến tôi không hoàn thành nhiệm vụ. Từ hai tuần trước chuyến đi, tôi đã tăng cường bảo vệ sức khỏe. Người phiên dịch làm việc bằng giọng nói nên tôi đặc biệt lưu ý phòng ngừa không bị ốm, sốt, đau họng. Ở nhà và sau khi lên máy bay tôi đều cố gắng che kín để giữ ấm cổ.
Những ngày trước khi đi, từng phút, từng giây trong đầu tôi chỉ có những hoạt cảnh về những tình huống công việc sắp đến. Tôi tập đi, tập lại trong đầu đến mức thuộc lòng những lời, những ý mà có thể tôi sẽ phải nói. Tôi lật lên xoay lại những phương án khác nhau, dịch những ý mà tôi đã đề xuất cho các bài phát biểu của Tổng thống Obama.
Đã từng trải qua kinh nghiệm của một chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ tới Việt Nam thời Tổng thống Clinton, tôi hiểu không khí khẩn trương, cấp bách, và yêu cầu phải hiệp đồng chặt chẽ nhưng linh hoạt của những người tham gia hỗ trợ chuyến thăm. Tôi vừa mong sao cho sớm đến lúc đó vừa mong sao chuyến thăm đừng đến quá vội để tôi có thời gian chuẩn bị cho kỹ.
Càng gần đến lúc lên đường tôi lại càng lo lắng, kiểm tra kỹ lưỡng những đồ dùng phục vụ công việc mang theo đã được sắp xếp thật cẩn thận từ trước đó cả tuần. Cảm giác sốt ruột, lo lắng làm tôi không thể nào ngủ được trong suốt thời gian bay 14 tiếng từ DC về Seoul và sau đó 4-5 tiếng về Hà Nội.
Không ngủ được nên tôi nghe đi nghe lại những bài hát cũ thời tôi lớn lên ở Hà Nội. Đó là những bài hát tình cảm, giản dị, nhạc đỏ mà bạn bè lớn lên ở miền Bắc chắc đều quen thuộc như: “Làng lúa làng hoa”, “Những ánh sao đêm”, “Bài ca xây dựng”, “Tàu anh qua núi”,... Tôi có cảm giác là thứ âm nhạc này tạo ra cho tôi tâm trạng phù hợp với công việc tôi sắp làm.
Cuối cùng, sau hơn 20 giờ di chuyển thì tôi cũng đến nơi, và được ngửi mùi không khí thân thuộc quê hương ở sân bay Nội Bài vào đêm ngày 19/5/2016.
Có một điều tình cờ hơi có hơi hướng tâm linh là, đúng ngày đó ba năm trước ở Washington DC, tôi đã đặt vấn đề với Tổng thống Obama là tôi mong được đi Việt Nam cùng ông.
Ông có thể kể về tâm trạng của ông lúc ở Hà Nội chờ đợi trước giờ G được không ạ?
- Để chuẩn bị cho chuyến thăm của một Tổng thống Mỹ, rất nhiều người phải đi tiền trạm, có nghĩa là phải đến địa điểm của chuyến thăm một thời gian trước khi Tổng thống đến. Phiên dịch viên cũng đi trong nhóm tiền trạm để có thời gian chuẩn bị, nghỉ ngơi, để đảm bảo họ làm việc tốt nhất. Thông thường luôn có hai người phiên dịch đi cùng Tổng thống để hỗ trợ cho nhau.
Tôi tới Hà Nội đêm ngày 19/5/2016, còn Tổng thống tới vào đêm ngày 22/5/2016. Trong ba ngày đến sớm chuẩn bị, tôi có diễm phúc được làm người quan sát im lặng. Tôi im lặng quan sát cách mà người Hà Nội phấn khởi chờ đợi Tổng thống Obama đến, và không mấy ai tôi gặp trong ba ngày đó biết rằng tôi chính là người sẽ làm việc gần gũi với Tổng thống. Người ta nói những câu mong đợi, mừng đón làm tôi vui và cảm động.
Gia đình và bạn bè gặp tôi trong những ngày đó đều bày tỏ một chút phấn khích, một chút kiêu hãnh, một chút mong đợi ngậm ngùi vị khách đặc biệt sắp đến. Với họ, tôi được dịp ba hoa bằng những câu đùa tôi từng đùa cả với Tổng thống Obama, rằng tôi là phó đoàn của chuyến thăm, và rằng tôi quan trọng tới mức Tổng thống còn là cánh tay phải của tôi cơ mà (do thường là Tổng thống ngồi bên phải phiên dịch).
Các chuyến thăm của Tổng thống Mỹ ra nước ngoài thường là những chiến dịch lớn của sức người, sức của, những yêu cầu hậu cần khổng lồ. Có lẽ, phải có gần 2.000 người làm việc bên phía Mỹ. Tôi cảm thấy mình là người may mắn nhất trong số đó.
Về vị trí chính thức và chức năng công việc, tôi đúng chỉ là một anh phiên dịch bình thường không hơn, không kém. Tuy vậy, về mặt tình cảm, ý nghĩa và lẽ sống ở đời, tôi lại là đứa trẻ may mắn sang Mỹ đi học 18 năm trước, nay được nước Mỹ đưa về quê vinh quy bái tổ, lại được đích thân “ông vua” của người ta đưa về tận làng, chiềng làng, chiềng chạ tới màn hình TV của tất cả mọi gia đình. Khỏi phải nói người ta cũng biết bố mẹ tôi cảm thấy vinh dự như thế nào.
Vì thế, trong những ngày đó tràn ngập trong lòng tôi là một cảm giác sùng kính, biết ơn, trân trọng. Số phận và lịch sử đã đặt tôi vào vị trí đặc biệt, cho tôi một sứ mệnh thiêng liêng, và tôi phải hết sức khiêm nhường để thực hiện sứ mệnh đó thật tốt.
Ban nãy, ông có nói là ông đã đề xuất ý kiến cho các bài phát biểu của Tổng thống Obama. Xin ông nói rõ hơn về việc này, đặc biệt là về hai cầu Kiều “lay động lòng người Việt Nam” mà Tổng thống Obama đã đọc ở cuối bài phát biểu ở Trung tâm Hội nghị Quốc gia năm 2016?
- Trong suốt thời gian kể từ khi máy bay Air Force One khởi hành từ căn cứ không quân Andrew tới lúc máy bay đến Hà Nội, tôi có một nhiệm vụ quan trọng là giữ liên lạc qua email và điện thoại với nhóm soạn diễn văn của Tổng thống đang cùng bay trên máy bay để hoàn tất các bài diễn văn Tổng thống Obama sẽ đọc trong chuyến thăm.
Có lúc buổi tối đang đi bộ ngoài Bờ Hồ, thấy có email từ nhóm đó gửi phải trả lời thì tôi chui tạm vào một quán cà phê oi khói bên đường. Tôi ngồi uống ly nước và cắm cúi trả lời những thắc mắc mà nhóm viết diễn văn hỏi. Tôi lúc đó trông giống hệt tôi 23 năm trước, khi còn là cậu hướng dẫn viên du lịch vào quán cà phê ngồi đọc truyện tiếng Anh.
Nếu năm xưa, có ai nói với chàng trai 17 tuổi ngày xưa là sẽ có một ngày cậu ấy ngồi trong quán cà phê viết bài diễn văn cho một Tổng thống Mỹ thì chắc cậu ấy nghĩ đó là một việc hoang đường. Ấy thế mà điều hoang đường đó đã xảy ra với tôi.
Là người có trách nhiệm chuyển tải các bài diễn văn sang tiếng Việt, tôi có quyền quyết định xem các dẫn chiếu văn hóa có “phiên dịch được” không, có ý nghĩa, có bị nhạy cảm về văn hóa, chính trị không, có phù hợp nhất quán với nhau trong chỉnh thể không.
Vài tháng trước đó, tôi đã gửi tới người được phân công viết bài diễn văn của Tổng thống ở Trung tâm Hội nghị Quốc gia hai câu thơ từ truyện Kiều mà tôi đã nói là “nếu Tổng thống chỉ đọc bài phát biểu chỉ gồm hai câu thì tôi muốn hai câu đó chính là hai câu thơ này”. Hai câu đó chính là hai câu: “Rằng trăm năm cũng từ đây/ Của tin gọi một chút này làm ghi” mà tôi dịch sang tiếng Anh thành: “Please take from me this token of trust/ So we can embark upon our 100-year journey together”. Nghĩa là: “Xin hãy nhận từ tôi vật làm tin này/ Để chúng ta có thể khởi hành chuyến đi trăm năm cùng nhau”.
Những bài phát biểu kiểu này hay bị coi là lời nói mỹ miều ít có ý nghĩa thực chất. Tuy nhiên, người Mỹ khi đã hứa thì xuất phát từ góc độ danh dự quốc gia phần nào vẫn bị trói buộc vào lời hứa đó. Một lời hứa được soạn và trình bày đúng cách có thể được coi như một thứ hợp đồng đơn phương có giá trị lâu dài giữa người đại diện quốc gia hùng mạnh thứ nhất thế giới với người dân Việt Nam. Nếu được thế thì lời hứa đó có thể trở thành nền tảng quyết định đường hướng của quan hệ hai nước trong nhiều năm sau.
Hiểu được tầm quan trọng và vai trò đặc biệt thú vị của những lời hứa trong diễn văn đối với quan hệ giữa hai nước, giữa hai nhân dân, tôi đã cố gắng vận dụng hiểu biết của mình về tâm lý dân tộc của mỗi nước để tạo ra một thứ thông điệp vừa mạnh mẽ, kiêu hãnh, duy lý, hào sảng kiểu Mỹ lại vừa đằm thắm, duy tình, trọng nghĩa, rưng rưng kiểu Việt Nam.
Rất may mắn cho tôi, ông Obama là người có sẵn cái tình để hiểu những lời nhân ái, tình nghĩa kiểu này để chấp nhận nói những lời hứa hẹn việc trăm năm.
Nhiều năm về sau này, ngay cả khi Tổng thống Obama không còn tại vị nữa, tôi tin tưởng chắc chắn rằng, vào những lúc quan hệ hai nước có khó khăn, người ta có thể mang hai câu này ra để làm bằng chứng cho lời hứa trăm năm và người Mỹ trọng truyền thống và lời hứa ở cấp cao sẽ hành xử thích hợp với tinh thần của lời hứa đó.
Tôi cũng tin tưởng là, sẽ có những lúc mà tình huống này sẽ xảy ra và lời lẽ mà hôm đó tôi may mắn làm sao đặt được vào bài phát biểu để Tổng thống Obama nói ra sẽ phát huy tác dụng, giúp đỡ người dân Việt Nam trong những lúc có những lựa chọn sống còn của đất nước, và dân tộc cần đến sự ủng hộ của một siêu cường như Mỹ.
Thực sự, khi nghe bài phát biểu của Tổng thống Obama lúc đó và bây giờ nghe lại tôi vẫn thấy vô cùng xúc động qua giọng dịch của ông. Ông đã làm thế nào để những ngôn từ giản dị, chân thành ấy chạm tới trái tim triệu triệu người Việt Nam?
- Do đã làm việc rất gần gũi với bài phát biểu này, nên tôi dịch không bị vấp váp mấy dù chỉ dịch thẳng từ bản tiếng Anh. Ấy thế nhưng cũng có những lúc tôi phải dừng lại để kìm nén nỗi xúc động lại.
Lời lẽ của bài phát biểu là lời lẽ giản dị, chân thành, tình nghĩa, tôn trọng đất nước, lịch sử, nhân dân Việt Nam. Những thông điệp Tổng thống muốn thay mặt Hoa Kỳ chuyển đến người dân Việt Nam là những thông điệp của tình bạn, tình hữu nghị, tình yêu, là những thông điệp gửi từ trái tim đến trái tim.
Tôi lựa chọn giọng văn tiếng Việt có phần hơi lơ lớ tiếng Tây (tình cảm của người dân Việt Nam đã động đến tận sâu trong trái tim tôi thay vì làm lay động tâm can tôi) để tạo cảm giác ông Obama là ông Tây đang cố nói tiếng Việt. Hiệu ứng này tôi được nghe kể lại là có tác dụng làm nhiều người xúc động.
Tôi bám sát Tổng thống gần như trong từng câu dịch mặc dù Tổng thống Obama đọc khá nhanh. Thời gian trôi đi tưởng như bài phát biểu dài 7 trang tiếng Anh sẽ không bao giờ kết thúc. Tôi cố gắng làm tốt từng câu rồi từng đoạn một rồi cũng hết từng trang, từng trang.
Tới đoạn cuối cùng là đoạn chốt thì như nhà báo biết tôi mới đọc được câu đầu tiên: “Rằng trăm năm cũng từ đây” là bao nhiêu cảm xúc chồng chất trong lòng bỗng trào ra, tôi lại khóc òa lên như đứa trẻ và không thể nào kết thúc được câu thứ hai và phần dịch nghĩa.
Tôi ngồi khóc nức nở tại chỗ trong mấy phút tới khi có người lên giục phải đi ngay để chuẩn bị ra sân bay đi thành phố Hồ Chí Minh.
Như ông chia sẻ, đây là lần thứ hai ông tư vấn cho lãnh đạo Chính phủ Mỹ sử dụng trích dẫn từ Truyện Kiều để trò chuyện với lãnh đạo và nhân dân Việt Nam. Tại sao lại là Kiều thưa ông?
- Thưa chị, lần đầu tôi trích dẫn Truyện Kiều để đưa vào bài phát biểu của một lãnh đạo Mỹ là cho bài phát biểu của Phó tổng thống Joe Biden trong bữa trưa chiêu đãi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại trụ sở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 7/7/2015.
Sáng đó, tôi đã ngồi một mình ở sảnh phòng Bầu dục (Oval Office) là văn phòng của Tổng thống Mỹ và “Cảo thơm lần giở trước đèn” để tìm ra hai câu thơ có ý tứ thật đẹp đẽ, tình cảm, lạc quan để Phó tổng thống Biden chào mừng Ngài Tổng Bí thư lần đầu tiên tới thăm Nhà Trắng, mà cũng là tới thăm Mỹ.
Hai câu thơ mà tôi đã trọn: “Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, là một trong những tứ thơ đẹp nhất Truyện Kiều. Là một học giả từng nghiên cứu về Kiều, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chắc chắn đã vừa ý với những lời đẹp đẽ đó đến qua ông Joe Biden.
Chị hỏi lý do tại sao cả hai lần tôi đều chọn các câu thơ của Truyện Kiều. Câu trả lời đơn giản là theo tôi trong văn thơ cổ điển Việt Nam e rằng không có tác phẩm nào vượt được qua Kiều. Điều này khi còn trẻ tôi không hiểu được.
Khi trẻ tôi coi Truyện Kiều như là những lời lẽ quá nôm na, không tinh tế, dựa trên một thứ kịch bản mượn, giá trị nghệ thuật hay tư tưởng đều không cao.
Gần ba mươi năm sau, tôi giờ đã sắp bước tới giữa những năm trung niên của cuộc đời thì tôi đã hiểu và yêu, và đồng cảm với những nét tương đồng giữa thân phận nàng Kiều với số phận dân tộc.
Tôi tin là Truyện Kiều chính là mật ngữ Nguyễn Du, thứ mật ngữ mà thiên tài của chúng ta gửi gắm vào một bài thơ lục bát dài, thứ thơ nôm na biền ngẫu của người dân thường quê ta, dựa trên một cốt truyện có thể nói là tầm thường. Thứ mật ngữ đó là cái phi thường ẩn náu trong thứ tầm thường.
Tôi nghĩ rằng, có lẽ ý tứ của Truyện Kiều còn chưa được phát lộ hết. Ý tôi định nói là, mãi sau này vẫn sẽ còn nhiều tình huống trong đời mà chúng ta có thể tóm tắt lại xúc tích và cô đọng chỉ bằng vài câu thơ mà Nguyễn Du đã viết sẵn từ vài trăm năm trước.
Giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều hay giá trị tư tưởng nhân văn của Truyện Kiều nhiều người đã nói, tôi giờ đọc Kiều để tập trung lắng nghe tiếng lòng đầy tâm sự của một người đồng cảm từ 300 năm trước gửi về sau.
Các câu thơ trong Kiều, nếu chỉ đứng riêng hoặc trong văn bản Truyện Kiều thì thường chỉ đẹp cái đẹp nghệ thuật. Để dùng trích dẫn từ Kiều nhằm minh họa cho hoàn cảnh cuộc đời đòi hỏi người ta phải có cái nhìn sâu sắc tới tận bản chất của hoàn cảnh rồi mới tìm ra góc cạnh liên tưởng mà thơ Kiều có thể tóm lược lại.
Tóm lược chưa đủ, mà còn phải tìm ra thứ liên tưởng, kết nối, hàm ý siêu hình có đầy trong Truyện Kiều. Truyện Kiều hàm chứa tình người, cái tâm sự thầm kín, cái mong chờ, mơ ước, cái khổ sở, vật vã, dự liệu, lo lắng của không chỉ con người, mà còn của cả đất nước. Người ta phải sống nhiều năm và trải nghiệm nhiều điều để đi được vào con đường cao tốc của minh triết Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều. Ông đúng là một người thần tiên hiền triết từng ở giữa chúng ta.
Trong 30 năm qua, có một điều rất hay là mặc dù ông Phạm Tuấn Anh chỉ là “người ngoài”, tức là không bao giờ là người ở trong biên chế của Chính phủ Hoa Kỳ, nhưng ông may mắn được tham gia vào nhiều sự kiện quan trọng của mối quan hệ Việt - Mỹ kể từ những ngày đầu.
Góc nhìn của một người quan sát gần gũi trong một thời gian dài như vậy khiến ông có được những nhận định liền mạch, sâu sắc của một người trong cuộc về mối quan hệ Việt - Mỹ mà chúng tôi thấy rất đáng để độc giả của Báo Đầu tư tham khảo.
Ông nhận xét rằng, trong gần 30 năm qua kể từ khi bình thường hóa, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã đi được những bước rất xa. Hai nước đi từ quá khứ là kẻ thù không đội trời chung tới hiện tại là mối quan hệ toàn diện như giữa hai người bạn tốt. Cũng như con người, các quốc gia khi bỏ qua được những hận thù, sân si, rồi đến gần với nhau để cùng nhìn về tương lai tươi sáng thì cũng là điều vô cùng tốt đẹp.
Ông Phạm Tuấn Anh có niềm tin lạc quan rằng, Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ ngày càng tin tưởng nhau, ngày càng trở nên gần gũi, gắn bó với nhau để làm sao khai thác được cả hai khía cạnh: khía cạnh thực tiễn là lợi ích kinh tế cho hai quốc gia, cho người dân hai nước và khía cạnh lãng mạn, của sự hỗ trợ, bảo vệ, che chở của người bạn lớn, giàu có hơn, cho một người bạn còn yếu hơn, nghèo hơn.
Từng làm phiên dịch cho nhiều cuộc gặp quan trọng giữa lãnh đạo hai nước từ năm 1996 đến nay, ông nhận thấy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã phát triển như thế nào suốt gần 3 thập niên qua, kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao ngày 11/7/1995?
- Thực ra, tôi chưa bao giờ có vai trò chính thức là một nhân viên của Chính phủ Hoa Kỳ. Mô hình của Chính phủ Hoa Kỳ tuy thế lại cho phép những người ở bên ngoại vi như tôi tham gia vào một số vị trí, vai trò trong quá trình họ lập chính sách và giao lưu, giao thương, giao tiếp với các quốc gia khác.
Năm 1996, tôi chỉ là một người trẻ Việt Nam may mắn được Đại biện Hoa Kỳ cho tham gia trong vai trò người phiên dịch cho một số cuộc gặp mang tính xã giao giữa phía Hoa Kỳ với các lãnh đạo của Việt Nam. Trong thời gian này, tôi cũng được tham gia làm phiên dịch cho những cuộc gặp không bí mật giữa các Bộ trưởng Hoa Kỳ với Việt Nam như Bộ trưởng Ngoại giao hay Bộ trưởng Y tế và Nhân sự vụ.
Đó là thời gian đầu khi Việt Nam và Hoa Kỳ mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, tôi là người mang quốc tịch Việt Nam được mời làm việc từ phía Mỹ hỗ trợ phiên dịch cho các giao tiếp.
Sau này, khi trở thành một thường trú nhân, rồi công dân Hoa Kỳ thì vai trò của tôi có nhiều thay đổi. Sống ở Mỹ, có quốc tịch Mỹ, làm việc chính sách từ phía Mỹ nhưng sinh ra ở Việt Nam, còn quốc tịch Việt Nam, thì sự trung thành của tôi cũng chia làm hai phần: một phần là tình yêu cho quê cha đất mẹ và phần kia là sự trung thành với đất nước tôi đã chọn làm quê hương thứ hai.
Có thể nói, đây giống như tình cảm mà một người dành cho quê cha và quê mẹ, cho bên nội và bên ngoại. Rất khó để nói là bên nào thì hơn hai bên nào, vì với mỗi bên tôi đều có những tình cảm, những đóng góp khác nhau. Mong muốn lớn nhất của tôi trong chừng đó năm là làm sao đưa Việt Nam và Hoa Kỳ gần lại với nhau hơn.
Nói như vậy nghe có vẻ hơi đại ngôn, nhưng thực ra, mỗi cá nhân khi đóng vai trò như một người kết nối, một đại sứ nhân dân của đất nước của mình với một đất nước khác thì nghiễm nhiên người đó đang đưa hai nước tiến lại gần hơn với nhau.
Hoàn cảnh cuộc sống cũng như lịch sử của tôi cho phép tôi được tham gia vào nhiều hoạt động giao tiếp giữa hai nước ở mức cao nhất. Những đóng góp của tôi, vì thế, phần nào cũng tương xứng với tầm vóc của các giao tiếp đó.
Trong chừng đó năm, có một điều rất hay là mặc dù là người ngoài, tức là không bao giờ là người trong biên chế của Chính phủ Hoa Kỳ, nhưng là một người quan sát gần gũi, có gắn bó mật thiết về công việc với bang giao hai nước, thì tôi nhận định rằng, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã đi được những bước rất xa.
Khi nhận định về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, người ta thường nói về cách cán cân thương mại song phương hay số lượng sinh viên Việt Nam học tập ở Mỹ đã tăng hàng ngàn lần so với năm 1995. Tôi cho rằng, những phát triển tương tự là những phát triển rất tự nhiên, những hiện tượng mang tính hình thức.
Tôi quan tâm nhiều hơn tới sự gắn bó về tình cảm giữa hai nước là một thứ thuộc về nội dung, bản chất. Nếu sự gắn bó này gần gũi, tốt đẹp thì chúng ta có thể tin rằng, những phát triển bề ngoài rực rỡ hơn sẽ còn tiếp tục đến.
Trong bang giao với Mỹ, người ta cần luôn lưu tâm tới việc nước Mỹ có nhiều khuôn mặt mà tôi giản hóa thành hai khuôn mặt. Một mặt là họ rất thực tiễn, họ làm việc gì cũng tính đến hiệu quả và phải đạt được lợi ích đong đếm, phân tích, kế toán được. Mặt còn lại của nước Mỹ, mà nếu người ta bỏ qua, không xem xét trọn vẹn thì sẽ là một thiếu sót lớn khiến cho phân tích không đầy đủ và chính sách dựa trên phân tích đó sẽ không tối ưu.
Mặt khác, Mỹ là một quốc gia có tinh thần lãng mạn rất cao, thể hiện ở chỗ họ có tình cảm cho những quốc gia khác. Nói chung, với khuôn mặt này, và là mặt thật chứ không phải mặt nạ, thì họ là một đất nước bênh vực kẻ yếu, người nghèo, người yếm thế trên thế giới. Họ cũng trân trọng những quốc gia có chung giá trị lập quốc như họ.
Quan hệ cụ thể của Mỹ với Việt Nam cũng phản ánh đủ hai khuôn mặt nói trên: một bên dễ thấy và nghiễm nhiên là những tính toán lợi ích kinh tế và chiến lược, nhưng một bên kia là mong muốn chân thành bênh vực Việt Nam.
Lịch sử cho thấy, Việt Nam là một đất nước quật cường, yêu tự do. Nước Mỹ sinh ra từ tinh thần chuộng tự do, phải chiến đấu để giành độc lập tự do y như Việt Nam, nên trong tâm thức quốc gia của họ có sự nể trọng tự nhiên những quốc gia có tinh thần yêu tự do như vậy.
Hoa Kỳ tìm thấy một đối tác kinh tế và chiến lược quan trọng đáng tin cậy trong khu vực châu Á -Thái Bình Dương là Việt Nam, đồng thời quan hệ hai nước cũng có tình cảm của hai người bạn hiểu nhau, thân nhau, quý nhau, chứ không chỉ là quan hệ hợp tác lạnh lùng có đi, có lại.
Diễn tiến quan hệ của hai nước suốt từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao đến nay phản ánh rõ rệt cả hai mặt thực tiễn và lãng mạn.
Những lợi ích kinh tế mà Việt Nam thu được hay những lợi ích chiến lược mà Hoa Kỳ nhận lại được từ quan hệ Mỹ - Việt rất rõ ràng. Nhưng tình cảm giữa hai nước cũng đã trở nên sâu sắc và gắn bó hơn.
Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng hơn trong các quan tâm về chính sách từ phía Hoa Kỳ. Theo quan sát của tôi, Việt Nam luôn đóng vai trò không thể thiếu trong mọi chính sách của Mỹ với Đông Á. Vai trò này vượt lên trên sức nặng kinh tế mà Việt Nam mang đến, vượt qua những khác biệt về ý thức hệ, và chỉ có thể giải thích được trọn vẹn với tâm tư đẹp của tình yêu.
Đơn cử Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cả Việt Nam và Mỹ ban đầu đều không phải là đối tác trong đó. Chính Mỹ chủ động mời chứ không phải Việt Nam chủ động xin tham gia cơ chế đó. Sắp xếp này rõ ràng là có rủi ro cho Việt Nam, bởi vì đó là một cơ chế không có Trung Quốc. Thế nhưng, Việt Nam đã hành xử cao thượng, tin cậy, chấp nhận rủi ro để đáp lại tốt nhất lời mời của người bạn Mỹ để đồng ý tham gia vào TPP, và khi tham gia là tham gia hết mình tới tận cùng.
Tôi tin rằng, quan hệ hai nước nếu về mặt triết lý, tình cảm mà đào sâu được thì những biểu hiện về thực tiễn như là lợi ích kinh tế, hợp tác quốc phòng, những hợp tác khác mang tính chiến lược chắc chắn sẽ đơm hoa kết trái trên cánh đồng của tình bạn sâu sắc.
Tôi cũng có niềm tin lạc quan rằng, hai quốc gia sẽ ngày càng tin tưởng nhau, ngày càng gần gũi, gắn bó với nhau để cùng khai thác được trọn vẹn cả hai khía cạnh: khía cạnh thực tiễn của lợi ích kinh tế cho hai quốc gia, cho người dân hai nước và khía cạnh của sự lãng mạn, ủng hộ của người bạn lớn.
- Là người được giáo dục về hành chính công kiểu Mỹ với các lý tưởng thị trường tự do, chính trị dân chủ, trong vai trò người phiên dịch ông đã làm thế nào để dung hòa được tính cách, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mọi người hai bên Việt Nam – Hoa Kỳ?
- Đây là một câu hỏi rất hay. Xin cảm ơn nhà báo đã đào sâu và giành thời gian suy ngẫm để hỏi một câu hỏi khá trực diện về những khó khăn của người phiên dịch cấp cao.
Người phiên dịch không phải đơn thuần chỉ là một người chuyển dịch ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Nếu phiên dịch là công việc thuần túy ngôn ngữ thì cái máy sẽ sớm thay thế con người.
Trong giao tiếp, nhất là giao tiếp ở cấp độ cao, thì lời lẽ chỉ truyền tải một phần ý nghĩa. Còn có những phần ý nghĩa không được nói ra, có những thứ muốn phiên dịch được thì người ta phải hiểu toàn bộ những trích ngang, lý lịch, quê quán, tầng ý nghĩa… Tức là, những thứ “ý tại ngôn ngoại” nằm ở bên ngoài lời nói.
Muốn làm người phiên dịch tốt không chỉ dịch những thứ nói ra bằng lời, mà còn phân tích cả những thứ không nói ra để người nghe chịu nghe, chịu hiểu mình buộc phải duy trì một trạng thái và vị thế tương đối cân bằng, khách quan.
Tôi may mắn có chuyên môn về chính sách công, được đào tạo tại một trong những đại học hàng đầu của Mỹ là Princeton. Như thế thì tôi với các nhà làm chính sách của Hoa Kỳ có chung gốc rễ học hành. Chúng tôi nói chung một ngôn ngữ của kinh tế học, của thống kê, của kinh tế phát triển, của chính trị và chính sách. Chúng tôi cùng tin tưởng rằng, chính sách phải dựa trên bằng chứng lý thuyết, số liệu, dữ liệu, và không bị lay chuyển bởi cảm tính. Tôi với những người làm chính sách Hoa Kỳ có chung chuyên môn và công cụ phân tích chính sách như vậy.
Mặt khác, tôi lại đến từ một quê hương giàu tình cảm hơn lý tính. Tôi giống như một cô gái con nhà nghèo ở quê lấy chồng ở Hà Nội. Gia đình nhà chồng ở Hà Nội có văn hóa gia đình riêng, có sự tự mãn, tự kiêu, kiểu ăn nói bề trên miệng nhà sang có gang, có thép riêng. Gia đình ở quê lại rất tốt, rất chân thành, nhưng cũng có những thứ tình cảm, tự ái riêng, cả tích cực và tiêu cực đều có.
Là người phiên dịch giống như cô gái nông thôn lấy chồng gia đình truyền thống Hà Nội, tôi phải đối mặt với một thử thách lớn dễ làm người ta nản lòng. Nhưng đó là thách thức rất thú vị, bởi vì là người trung gian trong một quan hệ lệch như vậy, tôi phải làm sao để có thể tìm ra được những điểm chung thay vì những điểm riêng.
Nếu như trong một mối quan hệ giữa hai bên khác nhau như vậy mà chúng ta nhấn mạnh vào những điều khác biệt thì sẽ không bao giờ có thể hàn gắn, kết nối được. Nếu có khoảng trống, khoảng cách giữa hai bên thì cái đó sẽ là một thứ vực thẳm không thể vượt qua.
Như vậy, nếu như cả hai bên đều có lòng mong muốn được tiếp cận gần với nhau thì người phiên dịch đồng thời sẽ phải là một người môi giới, người làm mối, người trung gian hữu hiệu để làm sao có thể tạo điều kiện cho hai quốc gia lại gần với nhau. Trên thực tế, có nhiều trường hợp, hai bên không hiểu nhau do có những niềm tin, truyền thống, hệ giá trị.
Những niềm tin, truyền thống, hệ giá trị khác nhau này lại đến từ các thế hệ cha ông của mỗi bên. Khi nói đến những thứ cha ông truyền lại thì thường người ta rất tôn trọng và trung thành với những thứ gia truyền đó. Khi chúng ta tôn trọng, trung thành với những giá trị của cha ông thì chúng ta lại thường có góc nhìn không được thân thiện với những truyền thống và giá trị của cha ông của người khác.
Thế thì, là người phiên dịch hay là một cô dâu nông thôn lấy chồng Hà Nội đó, tôi phải đưa hai bên lại gần với nhau bằng cách thay vì chỉ ra những điều hai bên khác nhau, tôi phải tập trung chỉ ra những điểm hai bên giống nhau. Đơn cử, nếu nói về hệ giá trị thì có những giá trị rất căn bản, mang tính bản thể giữa con người với nhau ví dụ như sự tử tế, lòng tốt, hay là sự lãng mạn, sự hào phóng. Những thứ vừa nói đó thì tất cả mọi người ở bất kỳ đâu trên thế giới cũng đều quý.
Những thứ tình cảm như người giàu giúp người nghèo, người lớn giúp người bé hay là những giá trị gia đình như con cái yêu thương bố mẹ, bố mẹ yêu thương và chăm sóc con cái, đều là những giá trị mà cả Mỹ và Việt Nam hay bất kỳ ở đâu khác đều chia sẻ. Công việc của tôi là tìm ra những giá trị hai bên chia sẻ hoặc giải thích những điểm khác biệt theo cách hợp lý để quy được chúng về những giá trị chia sẻ được.
Người phiên dịch không thể nào xuyên tạc, nói không thành có, nói có thành không, không thể bịa ra những điều không có ở trong văn cảnh. Thế nhưng, người phiên dịch có thể lựa chọn trong số nhiều phương án dịch một phương án tối ưu hàm chứa những giải pháp, những cách nhìn, cách diễn giải tốt nhất cho sự hiểu biết chung của hai bên.
Phương án dịch tối ưu chỉ ra cho hai bên thấy là sự hiểu của họ thực ra là giống nhau. Và những giá trị của bên này giống nhiều hơn là khác biệt với những giá trị của bên kia.
Gần 30 năm làm phiên dịch, tôi cũng đã có thành công nhất định nhờ phát triển được sự nhạy cảm để biết được khi nào một vấn đề là gai góc và gai góc đối với bên nào, chỗ nào một bên có thể du di chấp nhận, chỗ nào một bên không thể chấp nhận nhượng bộ. Từ nhận thức đó mà người trung gian đề xuất cách diễn giải hợp lý và đưa ra những giải pháp tốt cho cả hai bên. Lúc đó, dịch không phải là phá nữa mà là xây.
Được biết, sắp tới, ông sẽ là một người điều phối cho thảo luận nhóm tên là “Tầm nhìn và ý nghĩa của Hòa giải (Mỹ - Việt)”, ông có thể chia sẻ thêm về sự kiện này?
- Sắp tới ở Washington DC, vào ngày 11/10, Viện Hòa Bình Mỹ sẽ tổ chức hội thảo về quá trình hòa giải của Mỹ đối với ba nước Đông Dương. Tôi cũng đã nhận lời để tham gia làm một người điều phối của thảo luận tên là “Tầm nhìn và ý nghĩa của Hòa giải”.
Sinh năm 1976 sau chiến tranh, tôi không thể phát biểu như một người đã từng trải qua chiến tranh. Chiến tranh hay hòa giải đối với thế hệ tôi hay trẻ hơn, vì thế, có phần trừu tượng do chúng tôi không phải trải qua thời gian đó.
Đơn cử, tôi không biết thế nào là đi sơ tán. Tôi không biết những tháng ngày người Hà Nội chịu khổ đau vì bom Mỹ. Hay những điều đau khổ khác mà các bên trong chiến tranh có thể gây ra cho nhau. Điều lợi duy nhất là một người thế hệ hậu chiến như tôi có lẽ cởi mở hơn với chủ đề hòa giải so với những người đã phải chịu khổ đau vì chiến tranh.
Thế hệ hậu chiến lớn lên chỉ biết hòa bình thì có cái nhìn hướng về tương lai hơn là hướng về quá khứ, và nói về hòa giải, về bình ổn quan hệ, về chung sống hòa bình có lẽ trơn tru hơn.
Tuy vậy là người đọc nhiều, quan tâm đến lịch sử, trong thời gian làm việc phiên dịch hỗ trợ khôi phục quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, tôi cũng đã đọc hiểu nhiều tài liệu từ các nguồn đa dạng, được gặp gỡ rất nhiều những nhân vật lịch sử liên quan đến giai đoạn chiến tranh Mỹ - Việt và giai đoạn của những nỗ lực tái lập nền hòa bình giữa hai nước.
Những nỗ lực tái lập quan hệ hai nước đã được khởi động lại không lâu sau chiến tranh nhưng không thành công vì nhiều lý do. Mãi về sau này đến tận năm 1995 quan hệ ngoại giao giữa hai nước mới được bình thường hóa trở lại.
Trong bất kỳ mối bang giao quốc tế nào, để có được quan hệ tốt, người ta phải đảm bảo được việc tuân thủ nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Không phải quốc gia lớn hơn, mạnh hơn nào cũng muốn một mối quan hệ một chiều mà họ được hưởng mọi điều thuận lợi ở cửa trên. Nhiều nước hôm nay là nước mạnh, nước giàu cũng đã từng là nước yếu, nước nghèo rồi mới giàu mạnh lên. Lịch sử đó khiến họ cư xử bình đẳng với các quốc gia yếu và nghèo hơn họ.
Chính Hoa Kỳ là một quốc gia như vậy. Trong thời lập quốc, Hoa Kỳ từng là bên yếu bị nước Anh đàn áp; họ từng bị người Pháp, người Tây Ban Nha coi thường. Cũng không phải lúc nào Hoa Kỳ cũng là tay sen đầm quốc tế, lúc nào cũng chõ mũi vào công việc nội bộ của các quốc gia khác.
Một đặc điểm quan trọng nằm trong chính sách ngoại giao quốc gia của họ là chủ thuyết Hoa Kỳ chỉ nên đứng ngoài mọi vấn đề thế giới, tập trung vào công việc nội bộ, tận hưởng số may của vị trí địa lý cách biển để mà sống cho được yên thân.
Từng là “tay mơ” yếu thế trong các mối quan hệ quốc tế, Hoa Kỳ tin rằng, về nguyên tắc, các mối quan hệ quốc tế phải rất cân bằng. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ không phải là ngoại lệ trong nguyên tắc đó. Để có được sự cân bằng đó, hai bên cần cùng suy ngẫm và tập “thử chân vào cái giày của người kia” thì mới hiểu được những giá trị gì là quan trọng đối với bên kia. Khi đã có sự hiểu biết và tôn trọng bên kia thì hai bên có cơ hội để cùng tiến đến gần nhau.
Ngược lại, nếu một bên cho rằng, những giá trị của bên kia chỉ là giả dối, giả tạo, là bình phong che đậy cho những toan tính riêng, thì sẽ không nhìn ra điểm chung của bên kia và như thế là hai bên không thể đến gần nhau.
Một đặc điểm nữa, tôi thấy cần nói thêm là, Hoa Kỳ nói chung tôn trọng các cá nhân và quốc gia đề cao đạo đức, sự liêm chính, tinh thần từ thiện. Có nhiều ví dụ về các quốc gia nhỏ cả về diện tích, nền kinh tế, ảnh hưởng chính trị nhưng nhận được sự tôn trọng của Hoa Kỳ chỉ vì họ “nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Hiểu ra điều này thì một cách chắc chắn thành công để một quốc gia xây dựng quan hệ tốt với Hoa Kỳ là tập trung xây dựng sự tự trọng của mình. Việc đó thành công, Hoa Kỳ sẽ tự đến xin làm bạn tốt.
Lấy những nguyên tắc tốt đẹp ở trên làm tiền đề và khi hai nước có mong muốn được xây dựng quan hệ gần gũi, thì quan hệ Việt - Mỹ thân thiết là một trong những ví dụ tuyệt đẹp của nhân loại về cách mà hai nước từng là cựu thù, có thể vượt qua quá khứ để trở thành bạn tốt.
Đối với những quốc gia có lịch sử chung đau đớn như vậy, trở thành bạn thân với nhau là một điều quý giá. Các quốc gia cũng như con người, nếu bỏ qua được những hận thù, sân si, rồi đến gần với nhau để cùng nhìn về tương lai chung tươi sáng sẽ là điều vô cùng tốt đẹp.
Về tầm nhìn, tôi vẫn nhớ rằng, ngay từ lúc Tổng thống Clinton tuyên bố bỏ cấm vận và cả trước đó nữa, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã hàm chứa nhiều hạt giống lạc quan, bởi vì xuất phát điểm quá thấp do chiến tranh đã đẩy quan hệ hai nước xuống vực sâu của lịch sử và quan hệ. Từ đáy vực như thế, chỉ có một góc nhìn là đi lên thôi. Thế nhưng, hai bên có thể đã có lúc không đồng ý được với nhau về cách đi lên do có sự khác biệt về thể chế.
Chúng ta cùng nhìn lại và cảm ơn ông Clinton và các nhà thiết kế cho quan hệ mới được khôi phục, vì họ đã có cái nhìn rất lạc quan để tin tưởng rằng, hai nước có thể hợp tác được với nhau, vượt qua những khác biệt về chế độ chính trị.
Trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Nhà Trắng năm 2015, Tổng thống Obama đã nhắc đi, nhắc lại tầm nhìn nói trên thông qua khẳng định mạnh mẽ là Mỹ không quan tâm đến việc thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Đây tôi hiểu là thái độ và hiểu biết chung của lưỡng đảng Hoa Kỳ chứ không chỉ là quan điểm riêng của Đảng Dân chủ.
Một vế quan trọng của quá trình hòa giải là người Mỹ gốc Việt, những công dân cũ của Việt Nam Cộng hòa và con em họ. Vai trò của họ là không thể thiếu được trong tiến trình hòa giải và hàn gắn. Họ là những người vẫn luôn nặng lòng với quê hương Việt Nam và vì thế mối quan hệ hòa giải, hòa bình, hòa hợp giữa Mỹ với Việt Nam dứt khoát nên là một quan hệ chân thành của cả ba bên. Không ai nên hay có thể gạt những người Mỹ gốc Việt ra khỏi phương trình này.
Dù ba bên nói trên còn nhiều sự khác biệt, nhưng lại có điểm chung là đều mong muốn cho nước Việt Nam được thịnh vượng, hùng cường, có vai trò quan trọng trong cộng đồng thế giới, và con người Việt Nam được sống trong hòa bình, tiêu chuẩn sống và chất lượng cuộc sống đều được nâng lên. Chúng ta nên tập trung vào bồi đắp cho những mong muốn chung đó để vai trò của người Mỹ gốc Việt ở Việt Nam được cải thiện thêm lên.
Ông đã sống, làm việc ở Hoa Kỳ hơn 20 năm và vẫn thường xuyên trở về Việt Nam. Ông nhận thấy cuộc sống của người dân hai nước có sự khác biệt nào lớn?
- Tôi không chỉ sống ở Hoa Kỳ, mà trước đây đã từng làm việc và sống ở Trung Quốc, Ai Cập và cũng đã đi tới khoảng 40 quốc gia, trong đó có những quốc gia hiếm người đến như Triều Tiên.
Tôi cảm nhận, cảnh quan thiên nhiên ở mỗi nơi có thể khác, nhưng cảnh quan con người lại giống nhau một cách đáng ngạc nhiên ở mọi nơi. Con người chúng ta màu da có thể khác nhau, có danh tính dân tộc, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa khác nhau, nhưng những tình cảm con người, những thứ làm cho chúng ta trở nên đúng là con người lại giống nhau một cách đáng ngạc nhiên ở mọi nơi.
Ví dụ, ban nãy, tôi có nhắc đến gia đình và ý nghĩa của gia đình đối với mỗi người. Người Đông Á nghĩ đến Mỹ thường cho rằng, người Mỹ độc lập quá đáng, hay là gia đình Mỹ không yêu nhau, nào là con cái phải vay tiền của bố mẹ, bố mẹ thì chỉ mong con cái 18 tuổi để chúng có thể tự lập mà ra sống riêng, hay là con cái có thể đi đâu đó nhiều năm không gặp lại bố mẹ và bố mẹ già thì bị con cái đưa ngay vào viện dưỡng lão...
Những quan sát đó có thể đúng trên bề mặt, nhưng sai ở chỗ lý do không phải là người Mỹ không còn thương yêu nhau. Hơn nửa thế kỷ qua, những biến động về cơ cấu kinh tế, quan hệ sắc tộc và giới tính… cũng khiến cho quan hệ của người Mỹ với nhau thay đổi. Tình yêu thương vẫn còn nguyên ở đó chỉ có cách thức biểu hiện tình yêu đó là khác đi. Khi mà nền kinh tế phát triển, những hình mẫu của gia đình cũng phải bị thay đổi và điều chỉnh làm sao để tạo điều kiện cho người ta tham gia trọn vẹn các hoạt động của nền kinh tế.
Khi xưa, gia đình sống ở một địa phương, mọi người không rời xa quê thì gia đình rất quây quần gần gũi, nhưng khi người Mỹ ra khỏi nhà đi theo công việc làm ở mọi nơi trên đất Mỹ, thì sự gần gũi của gia đình cũng giảm đi. Những ngày lễ quan trọng, người ta vẫn tìm mọi cách để về với gia đình y như cách mà người Việt chúng ta hàng năm đổ về quê ăn Tết.
Chúng ta có thể thấy, ở Việt Nam ngày hôm nay, sau 20 năm Việt Nam bắt đầu cất cánh phát triển, cơ cấu và cách bày tỏ tình cảm của gia đình Việt Nam cũng đã có những sự thay đổi tương đương như các thay đổi trong gia đình Mỹ.
Trong cái cảnh quan con người giống nhau ở khắp nơi đó, tôi muốn nhấn mạnh vào những quan sát như thế này. Một đất nước giàu có bao nhiêu, thịnh vượng bao nhiêu thì sự thành công của đất nước đó vẫn bị đánh giá dựa trên mức độ hạnh phúc của những người yếu trong đất nước đó.
Người yếu ở đây bao gồm người nghèo, phụ nữ, người già và trẻ em, người tàn tật và trẻ em có nhu cầu giáo dục đặc biệt, các nhóm thiểu số, cả dân tộc thiểu số và những nhóm dễ bị kỳ thị như người đồng tính, chuyển giới, mẹ đơn thân,...
Một xã hội chỉ phát triển nặng ở trên đầu mà bên dưới không làm gì để chăm sóc những người yếu đuối thì xã hội đó chưa thực sự phát triển. Cách một xã hội chăm sóc những người yếu nhất của nó là chỉ dấu quan trọng nhất cho trình độ phát triển của xã hội đó.
Ở Việt Nam, chế độ xã hội của chúng ta đề cao vị thế của con người, chúng ta lấy con người làm gốc cho phát triển. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, Việt Nam đã phải trải qua nhiều năm chiến tranh rồi lại có những bất hạnh xảy ra ngoài mong muốn như là những đứt gãy thuộc về số phận và lịch sử của một dân tộc. Những thứ đứt gãy đó không phải hoàn toàn do lỗi của chúng ta, nhưng hoàn cảnh lịch sử như vậy cũng khiến chúng ta chưa có đủ điều kiện để chăm sóc thật tốt cho những người yếu nhất của chúng ta.
Trong văn hóa của chúng ta có nhiều câu ca dao, tục ngữ đề cao triết lý hỗ trợ người yếu như “Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Triết lý thì rất tốt đẹp, nhưng do đời sống thiếu thốn, nhiều khi cái khó bó cái khôn. Việc chăm sóc cho người nghèo, người yếu ở ta vẫn mang nặng tính ban phát, nguồn lực hạn chế chứ chưa phải thành một nết tính, một phong trào quốc gia.
So với nhiều quốc gia phát triển khác, những chính sách xã hội hỗ trợ người nghèo, người yếu, Mỹ chưa phải là đỉnh cao, nhưng so với Việt Nam, vấn đề này, Mỹ đang làm tương đối tốt và Việt Nam có thể tham khảo cách người Mỹ làm để xây dựng hệ thống an sinh xã hội của mình.
Trọng tâm của những chính sách xã hội chăm sóc người yếu chính là vấn đề nhân phẩm. Ví dụ, khi một đứa trẻ mất cha mẹ và không còn ai chăm sóc thì có tồn tại những cơ chế xã hội để đảm bảo sự an toàn của đứa bé, để nó không rơi vào những cái bẫy của trộm cắp, ma túy, mại dâm hay không? Hay khi một người già yếu, ốm đau nằm vật vã ở đó và không có ai chăm sóc thì có tồn tại những cơ chế xã hội để giúp người ta có sự chăm sóc y tế, để không bị bạo hành không?
Nhân phẩm ở đây chính là tính người cần được bảo vệ của những người rất dễ rơi vào vực thẳm của sự đối xử phi nhân tính. Chúng ta đang bảo vệ nhân phẩm khi xã hội chăm sóc người yếu, người nghèo; người ốm đau được chữa bệnh; trẻ con nhà nghèo được học hành, và những người đang yên lành bỗng gặp tai vạ trở nên bất hạnh,... bắt buộc cần phải có những cơ chế xã hội để nâng đỡ người ta. Những cơ chế xã hội để đỡ những người yếu, người bất hạnh được gọi là những lưới an sinh xã hội.
Lưới an sinh xã hội dùng hình ảnh so sánh với tiết mục diễn viên đi thăng bằng trong rạp xiếc. Người ta luôn mắc những lưới bảo hiểm ở dưới những diễn viên xiếc thăng bằng, bởi nếu chẳng may người ta ngã thì phải có lưới đỡ.
Truyền thống ở Việt Nam ta là nhờ cậy bạn bè, gia đình hỗ trợ những lúc khó khăn. Ở Mỹ, xưa người ta cũng phụ thuộc vào các mạng lưới tương hỗ đó để thoát cảnh không may tai nạn hay bệnh tật. Các cơ chế bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển giúp người ta không phải tìm đến người thân gia đình như là chỗ dựa đầu tiên khi sa cơ lỡ vận.
Ở Mỹ, theo như quan sát của tôi, các lưới an sinh xã hội thường có nhiều hơn một lớp. Người dân rất khó bị bỏ cho chết đói hay chết bệnh mà không có sự trợ giúp xã hội. Ai rơi xuống mà lớp lưới an sinh xã hội đầu không đỡ được, thì thường có thêm các lớp lưới thứ hai. Nếu như cái lưới đó lại bị rách thì lại phải có thêm một lưới phụ để đỡ.
Khác biệt lớn nhất về đời sống của người dân hai nước, theo tôi, chính là việc có hay không có các cơ chế an sinh xã hội thực chất. Một xã hội càng phát triển, người ta càng phải có những lớp lưới để đỡ những người chẳng may rơi ra khỏi nhịp đời sống bình thường. Theo tôi, chúng ta đang bắt đầu “dệt lưới” an sinh xã hội thì có thể học Mỹ cách làm, mà họ làm vậy để bảo vệ nhân phẩm từ nhiều năm nay rồi.
Ông kỳ vọng trong nhiệm kỳ của Tổng thống Joe Biden thì quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ có thêm những bước tiến như thế nào?
- Tôi tin là quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ có nhiều thuận lợi trong nhiệm kỳ của Tổng thống Joe Biden. Ông là một người hợp lý, dễ chịu, tôn trọng Việt Nam, thực lòng mong muốn giúp Việt Nam phát triển. Vì thế, nếu Việt Nam tận dụng được tốt những cơ hội trong nhiệm kỳ này của Tổng thống Biden thì sẽ có nhiều kết quả rất tuyệt vời.
Hôm 20/9 vừa rồi, tôi có dịp gặp và nói chuyện với Tổng thống Biden. Tôi có khoe với Tổng thống là người Việt Nam rất cảm kích về món quà hơn 40 triệu liều vắc-xin Covid-19 mà Hoa Kỳ tặng cho Việt Nam trong thời gian gần đây, mà tôi tin là Tổng thống có ảnh hưởng quyết định trong việc đó.
Đồng thời, tôi cũng nói là tôi muốn đi cùng Tổng thống thăm Việt Nam trước khi ông kết thúc nhiệm kỳ đầu. Tổng thống Biden cười và nói là không dám hứa với tôi việc đó, nhưng ngay lập tức, ông nói với cô thư ký là ghi nhận lại yêu cầu của tôi và lấy tất cả mọi thông tin liên quan.
Tôi thấy đó có thể là chỉ dấu rằng, Nhà Trắng đang xem xét lên kế hoạch để Tổng thống Joe Biden đi thăm Việt Nam trong một thời điểm thích hợp sớm, có lẽ nằm trong nghị trình làm việc với Đông Nam Á và Đông Á. Chúng ta cùng hy vọng sẽ mời được Tổng thống Biden đến Việt Nam.
Cá nhân tôi cảm nhận Tổng thống Joe Biden là người rất đáng tin cậy. Tôi có niềm tin tuyệt đối vào nhân cách của con người này. Trong nhiệm kỳ của ông, người Việt ta có thể ngủ yên và không cần lo lắng là Mỹ có làm gì ảnh hưởng xấu đến Việt Nam. Vệc hai nước có thể hợp tác được thêm gì không thì còn cần một cái duyên. Tôi vững tin là, dù thế nào, từ đây, hai quốc gia sẽ đều có lợi từ mối quan hệ ngày càng phát triển tốt đẹp.
Từ khi còn học cao học tại Mỹ, ông Phạm Tuấn Anh đã ý thức được mình là người có kiến thức, có trách nhiệm gùi kiến thức, mang kiến thức đó đến cho những người chưa có kiến thức. Khát khao trở thành một người hiệu trưởng gieo hạt giống của kiến thức, thành công, giúp nhiều bạn trẻ Việt Nam vươn ra toàn cầu của ông nay đã thành hiện thực.
Ở cương vị Hiệu trưởng Trường Minh Việt, ông Phạm Tuấn Anh đang cùng các cộng sự mang đến cho học sinh Việt Nam một chương trình đào tạo giáo dục kiểu Mỹ, với học phí ngày càng rẻ mà bất kỳ gia đình Việt nào cũng có thể chi trả.
Thưa ông, điều gì đã thúc đẩy ông chuyển sang làm giáo dục với việc sáng lập trường học trực tuyến Minh Việt (MVA) năm 2019?
- Sinh ra trong một gia đình cha mẹ đều là những người làm nghề giáo nên mong muốn làm giáo dục là khát khao hiển hiện tự nhiên trong tôi.
Tôi vẫn nhớ năm đầu tiên đi học cao học ở Mỹ ngành hành chính công, có một lần đi bộ buổi sáng đến trường với một người bạn tôi có nói với anh ấy rằng, mong muốn lớn nhất của tôi là một ngày nào đó được trở thành một người hiệu trưởng dạy những học sinh bé Việt Nam từ lúc còn nhỏ tới khi trưởng thành thành đạt. Người bạn ngỏ lời khuyến khích nhưng chính tôi cũng nghĩ là việc đó khó có bao giờ xảy ra.
Dù bận rộn đi làm việc cho những tổ chức phát triển nhưng tôi vẫn luôn nghĩ là tôi là người may mắn có được cơ hội học tập ở Mỹ thì một cách trả ơn cuộc đời là mang những cơ hội tương tự cho người khác. Với suy nghĩ đó, bên cạnh công việc chuyên môn, tôi cũng thường xuyên hỗ trợ dạy dỗ và kèm cặp khoảng 20 bạn trẻ tới Mỹ học tập và làm việc rất thành công trong 20 năm trước khi mở trường Minh Việt.
Năm 2018 là thời của chính quyền Tổng thống Donald Trump và tôi không có liên quan gì đến công việc của Chính phủ Hoa Kỳ. Lúc rảnh đọc Facebook thấy một số bạn bè viết tiếng Anh còn sau ngữ pháp. Nhân có nghề tay trái làm biên tập tiếng Anh, tôi mới quyết định mời các bạn bè Facebook học lại ngữ pháp tiếng Anh với tôi. Hàng ngày tôi sẽ giảng những vấn đề về ngữ pháp theo cách dễ hiểu và học phí chỉ là 1 USD/một tuần học.
Với học phí thấp như thế, ngay lập tức có rất nhiều người tham gia học nên tôi gọi chương trình là Tiếng Anh bạn Gấu (TABG) - Gấu là tên ở nhà của tôi. Các bạn đi học với tôi được khoảng 6 tháng là hết phần ngữ pháp, sau đó chúng tôi chuyển sang phần ứng dụng đọc dịch.
Lúc đó, tình cờ tôi tìm được chương trình Zoom, bây giờ ứng dụng này rất phổ biến nhưng khi đó thì không ai biết cả và tôi thử dùng chương trình này cho lớp học của TABG. Tôi nhận ra là chương trình này chạy rất ổn định và bất thình lình nghĩ ra rằng thôi đây chính là cái mình tìm kiếm lâu nay. Zoom là công cụ hữu hiệu để tôi kết nối các thầy cô giáo ở Mỹ với học sinh ở Việt Nam.
Các giáo viên ở Mỹ có sự chênh lệch múi giờ chừng nửa ngày với Việt Nam. Chiều tối ở Việt Nam cũng là buổi sáng sớm ở Mỹ là lúc giáo viên đa số rảnh rỗi trong khi lúc đó lại là giờ cao điểm học thêm của học sinh ở Việt Nam. Như thế chúng ta có ngay một mối quan hệ cung cầu rất tốt.
Và giờ thì chỉ cần có một ai đó tạo ra một nơi giúp cung cầu gặp được nhau. Đó là lý do mà vào tháng 7/2019, tôi thành lập Trường Minh Việt (Minh Viet Academy - MVA) là trường online với các giáo viên Mỹ đa số có bằng cao học và chứng chỉ giảng dạy chương trình phổ thông của Mỹ cho học sinh Việt Nam.
Ban đầu trường chỉ có các lớp 6, 7, 8, 9 với hai lớp 4 và 5 học chuẩn bị. Năm nay là năm thứ tư MVA vận hành và chúng tôi giờ có 14 cấp lớp cho các học sinh từ 3 đến 17 tuổi. Năm nay là năm chúng tôi có lớp 12 đầu tiên.
Dù kế hoạch ban đầu là lớp này là lớp đầu tiên nộp đơn đi học đại học ở Mỹ nhưng năm ngoái chúng tôi đã có một số bạn 18 tuổi học lùi với lớp 11 nộp đơn đi Mỹ và đã sang học ở Mỹ với học bổng cao cho đến toàn phần.
Mục đích của chúng tôi là đưa được càng nhiều học sinh sang Mỹ học đại học càng tốt với mức chi phí thật thấp cho các gia đình Việt Nam còn nghèo.
MVA cho các học sinh học tập kiến thức của học sinh phổ thông của Mỹ và những môn phụ trợ khác để các em khi lên đường lúc 18 tuổi đã thực sự là công dân thế giới nhưng vẫn hiểu biết và gắn bó với ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam.
Nhưng liệu có sự khác biệt nào về triết lý giáo dục giữa Việt Nam và thế giới không, thưa ông?
- Đầu tư vào giáo dục là một thứ đầu tư luôn có lãi. Điều này đúng trong một gia đình, một xã hội, đúng cho toàn thế giới.
Chúng ta đầu tư vào giáo dục có nghĩa là chúng ta đầu tư vào xây dựng nguồn vốn con người. Nguồn vốn con người càng có năng lực cao thì sức sáng tạo của họ, năng suất của họ, sức lao động và những kết quả của sức lao động của họ sẽ tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng ngày càng cao cho xã hội.
Các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao thì trong một thế giới ngày càng phát triển, nơi mà công nghệ đang tăng trưởng vũ bão sẽ mang lại càng nhiều những lợi ích thực dụng tuyệt vời mà chúng ta hôm nay đang được hưởng như mạng internet, mạng xã hội, các ứng dụng giao tiếp trong thời gian thực. Tất cả những thành quả đó đều đến từ những việc ở đâu đó trong quá khứ người ta đã đầu tư vào giáo dục và tạo ra những người lao động tri thức chất lượng cao.
Ngày hôm nay trong nền kinh tế tri thức toàn cầu thì người Việt Nam chúng ta đang đóng vai người hái quả nhiều hơn là vai người trồng cấy. Lý do của thực tế này cũng có nguyên nhân lịch sử. Chúng ta mới thoát ra khỏi chiến tranh và nghèo đói được một thời gian rất ngắn.
Thêm nữa, mặc dù chúng ta thừa hưởng truyền thống tốt từ cha ông đề cao giáo dục, nhưng thứ giáo dục chúng ta đề cao lại chú trọng vào việc tầm chương trích cú đi theo lối mòn của học thuộc, những khuôn mẫu, lề lối cũ, để viết những câu thơ văn hay đẹp chứ không chú trọng vào áp dụng, thực hành, sáng tạo, mở lối.
Có một vài bậc tiền bối trong lịch sử Việt Nam như Trạng lường Lương Thế Vinh cũng đã học toán rồi dạy dỗ những phép làm toán phục vụ chỉ cho những nhu cầu đo điền thổ, tính khối lượng giản đơn. Chúng ta không có truyền thống về nghiên cứu và phát kiến nên cũng không có thành quả về những lĩnh vực này.
Việt Nam là một nước có truyền thống nghèo và trong một đất nước nghèo thì học tập là một thứ đặc ân chứ không phải là một thứ quyền. Nguồn lực xã hội dành cho giáo dục là rất hạn chế trong khi người muốn học thì lại có rất nhiều dẫn đến việc giáo dục trở thành một thứ ban phát, được trao tặng chỉ cho những người tài giỏi nhất. Người ta phải chứng minh là người ta xứng đáng được hưởng đặc ân giáo dục qua các kỳ thi mỗi lúc một khó. Một số kỳ thi gần đây mà người thi được điểm gần tuyệt đối 29-30 điểm còn chưa chắc trúng tuyển là ví dụ cho những gì tôi mới trình bày ban nãy.
Thế giới hiện nay đã đi rất xa khỏi triết lý về giáo dục là phần thưởng để ban phát. Giáo dục không có nghĩa là xã hội làm ơn, ban phát cơ hội học hành cho người học mà ngược lại người học đang làm ơn cho xã hội. Từ lâu, họ đã chuyển sang cách nghĩ rằng người nào học là họ làm ơn cho xã hội.
Cách nghĩ này có cái lý tự nhiên đúng rất dễ thấy. Bởi vì nói rất đơn giản thì một người học tốt và ra đi làm thành công giúp xã hội bớt đi một người nghèo, một người yếu, một người khổ, một gánh nặng cho xã hội. Một xã hội có phong trào học tập tốt thì sẽ không chỉ có nhiều ý tưởng sáng tạo cách tân kích thích tăng trưởng kinh tế mà còn làm giảm đi gánh nặng của hệ thống trợ cấp xã hội.
Tôi tin rằng khi nền kinh tế phát triển đủ cao thì nó sẽ đòi hỏi nền giáo dục phải tự thay đổi cho phù hợp và như thế tương lai của giáo dục Việt Nam chắc chắn cũng sẽ đi theo quỹ đạo và triết lý tương tự như của phần lớn thế giới.
Tôi thấy, thực tế có lẽ giống như ông nhận định là giáo dục ở Việt Nam đang chịu nhiều sức ép đến từ việc số người học tăng nhanh hơn tăng trưởng về hạ tầng giáo dục. Trong tình hình đó thì liệu ông có nghĩ là thay đổi triết lý giáo dục cũng là việc khó làm?
- Gần đây một trường mẫu giáo công lập chỉ có 120 chỗ cho các cháu mà lại có mấy trăm học sinh có nhu cầu nên cha mẹ phải gắp thăm để xem ai may mắn được vào trường. Đấy chính là một ví dụ về sự quá tải mà chị nhắc đến.
Thời đại mới có những cung cách sáng tạo mà chúng ta có thể xem xét nghiên cứu áp dụng để giảm bớt áp lực cho hạ tầng giáo dục, để tối đa hóa lợi ích của chi tiêu công cho giáo dục. Chúng ta có thể đưa công nghệ vào giáo dục để mang kiến thức đến cho đông người hơn với chi phí càng ngày càng thấp hơn.
Hiện nay nhờ phát triển của công nghệ mà nhiều chương trình học không cần dùng đến trường thực thể nữa. Tôi đang muốn nói đến mô hình giáo dục trực tuyến hoặc là giáo dục trực tuyến kết hợp với giáo dục trong đời thực. Nếu chúng ta tìm ra được một kết hợp hợp lý thì có thể mang lợi ích giáo dục đến cho rất nhiều người với chi phí rất thấp.
Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục công là lựa chọn rẻ tiền phù hợp với số đông dân chúng nhưng có nhược điểm của sự quá tải như chúng ta vừa cùng xem xét. Sĩ số trong lớp học ở trường tiểu học công có thể lên tới 70 học sinh trong một lớp. Tình hình này có lẽ sẽ khó cải thiện nhiều trong những năm tới đây.
Các gia đình có điều kiện kinh tế hơn hoặc không đủ điều kiện để cho con học trường công có thể lựa chọn các trường tư có mặt ở mọi cấp học, với các sản phẩm giáo dục đủ mức giá từ các nhóm trông trẻ, mầm non ở khu phố cho tới các trường quốc tế giảng dạy chương trình quốc tế bằng tiếng Anh mà học phí năm có thể lên tới cả tỷ đồng.
Khoản học phí khổng lồ này là tương đương với thu nhập trung bình nhiều năm của đa số các gia đình Việt Nam. Thế nhưng vẫn có nhiều người chọn cho con theo học các chương trình quốc tế giảng dạy bằng tiếng Anh do có một nhóm dân số nhỏ hiện nay có mức sống và thu nhập rất cao.
Triết lý của tôi là chúng ta có thể mang một nền giáo dục quốc tế đến cho học sinh Việt Nam với chi phí rất thấp. Xuất thân là con nhà nghèo nên tôi cảm thấy không vui khi thấy con nhà nghèo lại tiếp tục đi lối mòn nhà nghèo của cha mẹ, kiểu như “Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Con nhà giàu đi học trường quốc tế có điều kiện để khi lớn lên lại thành nhà giàu. Con nhà nghèo không có tiền phải đi học trường làng khi lớn lên lại vẫn chỉ nghèo như cha mẹ.
Liệu chúng ta có thể làm gì để con nhà nghèo cũng có thể có được sự tiếp cận giáo dục quốc tế với chi phí hợp túi tiền cha mẹ? Làm được vậy chúng ta tạo điều kiện để cho con nhà sãi về sau không phải quét lá đa nữa, để họ có được cơ hội tương đối bình đẳng so với con nhà vua.
Tuy nhiên, mang kiến thức quốc tế tới cho con nhà nghèo mới chỉ là một nửa của phương trình. Nửa kia đòi hỏi chúng ta phải trả lời câu hỏi là học sinh con nhà nghèo sẽ làm gì với kiến thức của thế giới khi mà nền kinh tế ở địa phương còn chưa có nhiều công việc làm đòi hỏi trình độ cao của họ?
Giải pháp của tôi là làm sao để đưa các cháu ra nước ngoài bởi vì thế giới rất rộng lớn và nhu cầu cho người lao động trí thức trên thế giới hiện nay là rất cao. Tức là trí tuệ của người Việt Nam mình có nhiều cơ hội phát triển trên thế giới.
Như vậy có thể tóm lược lại giải pháp trọn bộ của tôi theo trình tự thế này. Đầu tiên, chúng ta dùng công nghệ để mang kiến thức thế giới, tiếng Anh và các ngoại ngữ khác, đến cho thật nhiều học sinh Việt Nam để họ có căn bản tốt nhất để trở thành những người lao động chất lượng cao.
Sau đó, chúng ta đưa họ ra thế giới để học hành thêm, để khai phá hết tiềm năng, tài năng của họ. Cuối cùng thì chúng ta gửi họ tới các công ty lớn của thế giới như là những mặt hàng Việt Nam chất lượng cao.
Đây cũng là xuất khẩu lao động nhưng không phải xuất khẩu lao động như trước đây chúng ta làm với lao động phổ thông chuyên môn thấp. Tôi muốn xuất khẩu những người lao động chất lượng rất cao mà thế giới sẽ phải trả những khoản lương rất cao cho họ.
Các công ty công nghệ thế giới trả lương cho nhân viên 200.000 USD/năm là việc rất bình thường. Hãy thử tưởng tượng chúng ta gửi được 10.000 người lao động chất lượng cao như vậy ra thế giới thì lợi ích cho đất nước sẽ lớn nhường nào?
Là một trường học với chương trình học của Mỹ, giáo viên Mỹ, vậy học phí của MVA như thế nào, thưa ông? Và ông cũng có thể nói thêm xem với học phí như vậy thì học sinh nhận được những gì từ MVA?
- Học phí của MVA rất thấp, trung bình chỉ có vài chục đô một tháng. Tính ra học phí trung bình một giờ học chỉ khoảng 25 ngàn đồng mà cha mẹ không cần đưa đón con vất vả. Những ngày mưa gió bão ở Việt Nam lúc nhiều nhà phải lội nước tới yên xe máy để đi học thêm thì học sinh MVA ngồi ở nhà ấm áp và học tập với các giáo viên ở Mỹ.
Chúng tôi cố gắng để mang lợi ích tốt nhất đến cho học sinh Việt Nam, mang sự lựa chọn học thêm để chuẩn bị cho các cháu vươn ra thế giới. Ngôn ngữ của chương trình giảng dạy là bằng tiếng Anh. Các giáo viên Mỹ dạy cho học sinh Việt Nam bằng tiếng Anh với chương trình học tập của Mỹ được rút gọn một chút. Về căn bản là các con được tiếp xúc với hầu hết các kiến thức có thể giúp các con vào đại học thế giới thành công.
Khi mở trường, mong muốn của tôi là mang lợi ích giáo dục quốc tế tốt nhất đến cho các gia đình Việt Nam. Tôi tin vào lợi ích của chương trình đó đến mức mà tôi nói rằng các gia đình có thể học hết học kỳ và nếu họ cảm thấy chương trình không giúp ích cho con họ thì họ có thể yêu cầu hoàn tiền và nhận lại toàn bộ học phí đã đóng.
Kết thúc học kỳ đầu tiên của năm học đầu tiên, có một nửa các gia đình đã xin nghỉ và lấy lại tiền học phí đã đóng. Họ nói là con họ bận rộn ở trường do sức ép học thêm ở trường quá lớn. Họ không nói là chất lượng giảng dạy của chúng tôi không tốt.
Bởi vì chúng tôi tôn trọng lời hứa của mình nên chúng tôi hoàn tiền học phí lại ngay cho một nửa các gia đình đó. Khi hoàn tiền xong thì chúng tôi chấp chới. Đó là khoảnh khắc khó khăn tưởng như dự án không còn đi được nữa do thu nhập bị giảm quá nhiều. Ngay sau đó, chúng tôi lập tức mở các lớp 1-2-3 và lượng học sinh từ các khối lớp này đã cứu trường một bàn thua trông thấy.
Trong gần bốn năm vận hành vừa rồi, tôi nhận thấy có một điều rất lạ là con nhà nghèo, không có điều kiện lại thành công hơn ở MVA so với con nhà có điều kiện kinh tế hơn.
Tôi nghĩ lý do ở đây là khi một gia đình có điều kiện kinh tế thì họ có nhiều lựa chọn về giáo dục cho con. Họ cảm thấy học phí của MVA chỉ vài chục USD một tháng là con số nhỏ quá. Họ cảm thấy như họ chưa tối đa hóa lợi ích giáo dục cho con nếu chỉ tiêu số tiền quá nhỏ như thế cho giáo dục. Họ sợ là học phí thấp như thế thì chất lượng có đảm bảo không. Họ nghĩ là cần phải chi nhiều hơn cho giáo dục thì mới đảm bảo được tương lai cho các con.
Vậy nên chính những gia đình có nhiều tiền, điều kiện kinh tế thường bỏ cuộc sớm, và không cảm nhận được lợi ích mà chúng tôi mang lại. Ngược lại, con của những gia đình nghèo chạy ăn từng bữa, việc học phí thấp để học tập với giáo viên Mỹ, với chương trình học của Mỹ thì đúng là chỉ có trong mơ. Khi họ tin và yêu thì lợi ích của MVA nở hoa trong những gia đình như vậy. Tất nhiên cũng có ngoại lệ nhưng mà tình hình nói chung là như thế.
Kết thúc học kỳ đầu tiên của năm học đầu tiên, có một nửa các gia đình đã xin nghỉ và lấy lại tiền học phí đã đóng. Họ nói là con họ bận rộn ở trường do sức ép học thêm ở trường quá lớn. Họ không nói là chất lượng giảng dạy của chúng tôi không tốt.
Bởi vì chúng tôi tôn trọng lời hứa của mình nên chúng tôi hoàn tiền học phí lại ngay cho một nửa các gia đình đó. Khi hoàn tiền xong thì chúng tôi chấp chới. Đó là khoảnh khắc khó khăn tưởng như dự án không còn đi được nữa do thu nhập bị giảm quá nhiều. Ngay sau đó thì chúng tôi lập tức mở các lớp 1-2-3 và lượng học sinh từ các khối lớp này đã cứu được trường một bàn thua trông thấy.
Trong gần bốn năm vận hành vừa rồi, tôi nhận thấy có một điều rất lạ là con nhà nghèo, không có điều kiện, lại thành công hơn ở MVA so với con nhà có điều kiện kinh tế hơn. Tôi nghĩ lý do ở đây là khi một gia đình có điều kiện kinh tế, họ có nhiều lựa chọn về giáo dục cho con. Họ cảm thấy học phí của MVA chỉ vài chục USD một tháng là con số nhỏ quá. Họ cảm thấy như vậy họ chưa tối đa hóa lợi ích giáo dục cho con nếu chỉ tiêu số tiền quá nhỏ như thế cho giáo dục. Họ sợ là học phí thấp như thế liệu chất lượng có đảm bảo không. Họ nghĩ là cần phải chi nhiều hơn cho giáo dục thì mới đảm bảo được tương lai cho các con.
Vậy thì là chính những gia đình có nhiều tiền, điều kiện kinh tế tốt hơn thì thường bỏ cuộc sớm, và không cảm nhận được trọn vẹn lợi ích mà chúng tôi mang lại. Ngược lại, con của những gia đình nghèo chạy ăn từng bữa, thì học phí thấp như thế để học tập với giáo viên Mỹ với chương trình học của Mỹ thì đúng là chỉ có trong mơ. Khi họ tin và yêu thì lợi ích của MVA nở hoa trong những gia đình như vậy. Tất nhiên cũng có ngoại lệ nhưng mà tình hình nói chung là như vậy.
Như vậy là có sự tương phản rõ rệt giữa mức thu nhập của các gia đình, hay là giữa các gia đình ở tỉnh xa, ngoài các trung tâm lớn. Những người có điều kiện hơn dễ bỏ cuộc hơn. Ngoài ra chúng tôi cũng chịu áp lực từ các lựa chọn học thêm khác. Chúng ta mất nhiều học sinh của các lớp sắp thi chuyển cấp.
Tuy nhiên, chúng tôi luôn đề cao nhân phẩm của cả học sinh và của chúng tôi bằng cách tạo điều kiện tốt nhất, linh hoạt nhất để các gia đình vào ra thoải mái. Chúng tôi không bao giờ mời chào, tiếp thị, níu kéo: ai muốn đến thì đến, ai muốn đi thì đi, hết sức thoải mái. Chúng tôi tin là lựa chọn giáo dục của chúng tôi là rất tốt nhưng vẫn cần phải có một thứ duyên đưa gia đình tới trường và ở lại cùng chăm con học tập với nhau.
Chúng tôi luôn tạo điều kiện để cho những gia đình điều kiện kinh tế kém có thể thanh toán học phí một cách linh hoạt và không để cho tiền bạc trở thành rào cản ngăn con người ta đến với giáo dục quốc tế.
Chúng tôi cũng có chính sách là trong thời gian theo học ở trường, nếu một học sinh mất cha hay mẹ thì chúng tôi cung cấp học bổng trọn vẹn từ lúc đó cho đến lúc học sinh học hết lớp 12.
Chúng tôi muốn mang món quà giáo dục để bù đắp phần nào cho sự mất mát to lớn mà các em phải chịu, để thay mặt cha mẹ học sinh nâng đỡ người con người trứng nước để các con có phương tiện đi ra thế giới, để vẫn nên người. Trên thực tế, chúng tôi có một số học sinh được áp dụng chính sách tình cảm này.
Ba mươi năm qua của cuộc đời tôi là một hành trình cá nhân thật dài, thật có ý nghĩa, với thành công không thể tin được nếu xem xét trong so sánh với hành trang ít ỏi tôi có khi khởi hành. Ngày đó có một cái bánh mì ăn trưa mỗi ngày đi học cũng không phải dễ ấy thế mà tôi đã đi được thật xa như thế này. Sự biết ơn những ánh sáng nào đó đã soi đường khiến tôi hiểu được là ba mươi năm tới tôi có một trách nhiệm đạo đức giúp tạo ra được nhiều người Việt Nam đi ra thế giới thành công như hoặc hơn tôi nữa.
Là một người mồ côi bố từ năm 4 tuổi, tôi rất xúc động khi nghe ông nói về chính sách nhân văn mà Minh Việt dành cho học sinh không may mất cha mẹ. Tôi cảm nhận được sâu sắc những giá trị quý báu mà dự án Minh Việt muốn mang và trên thực tế là đang mang đến cho cộng đồng rồi. Không biết ông có đặt mục tiêu cụ thể nào cho dự án MVA không?
- Kế hoạch của tôi là làm sao trong ba mươi năm tới đưa được 10.000 thanh niên Việt Nam ra thế giới rồi đưa họ vào các chính phủ thế giới, các tổ chức toàn cầu, các công ty đa quốc gia, các tổ chức đa phương và quốc tế, các đại học và viện nghiên cứu, các bệnh viện, các dàn nhạc giao hưởng, các nhạc viện, các trường nấu ăn, các bảo tàng hàng đầu,...
Tóm lại là tôi muốn đưa những người Việt xuất sắc tới những nơi đặc sắc của thế giới để họ nở hoa trọn vẹn tiềm năng và tài năng của họ. Lợi ích mà họ tạo ra dù là vô hình hay hữu hình sẽ làm lợi không chỉ cho họ và gia đình mà còn cho đất nước ta, dân tộc ta.
Đây không phải là mơ hoang tưởng tượng. Thời gian qua, chúng tôi đã làm được một phần kế hoạch đó và giúp không ít bạn trẻ thành công.
Nhiệm vụ của tôi và thách thức lớn nhất là, làm sao làm được điều đó cho con nhà nghèo Việt Nam để họ có được cơ hội đi lên đỉnh cao thế giới như tôi đã đi thành công với chi phí chỉ bằng một chiếc bánh mì mỗi ngày.
Mặc dù mạng Internet hay Youtube và Tiktok tạo ra cảm giác là bọn trẻ đã giống nhau ở khắp thế giới, thực tế là trẻ em Việt Nam vẫn cần phải tiếp cận được giáo dục quốc tế và kiến thức có hệ thống thì mới thành công được trên trường quốc tế. Điều MVA đang làm là tạo ra hiệu ứng bình thông nhau để các bạn trẻ Việt Nam vươn lên đứng ngang hàng về kiến thức với các bạn trẻ thế giới.
Những năm qua, tôi đã đạt được thành công ban đầu với MVA. Hàng ngàn học sinh MVA hàng ngày ngồi học thoải mái bằng tiếng Anh với giáo viên Mỹ. Tất cả các em giờ đã trở thành những học sinh Mỹ đúng nghĩa, trong khi vẫn ngồi ở Việt Nam. Chi phí học phí cho gia đình chỉ khoảng 2 USD/ngày là mức học phí đa số các gia đình có thể chịu được.
Năm 2022-2023 này, học phí của MVA đã giảm một nửa so với năm đầu. Chúng tôi cam kết sẽ tiếp tục giảm học phí nữa để giúp cho càng nhiều học sinh Việt Nam từ các gia đình nghèo, vùng kém phát triển có thể đi ra thế giới.
Là người yêu nước và có trái tim giàu tình cảm, chắc hẳn ông đã gửi gắm nhiều điều vào tên trường Minh Việt?
- Minh Việt là tên hai con trai tôi. Con trai lớn của tôi được đặt tên theo em trai tôi là Phạm Tuấn Minh. Bạn Minh chú sinh năm 1984 lúc gia đình ở đáy của sự nghèo nên lúc bé quặt quẹo ốm đau phải đi cấp cứu mấy lần tưởng không qua khỏi. Lớn lên bạn ấy học chuyên Toán rồi sang Mỹ học đại học ngành Toán, và học tiến sĩ ngành Vận trù học. Phạm Tuấn Minh giờ đang làm Giáo sư ở Đại học San Francisco ở Bang California và có nhiều thành tích nghiên cứu và giảng dạy rất tốt. Bạn ấy là người đầu tiên mà tôi kèm cặp đưa tới thành công.
Đặt tên con trai thứ hai là Việt vì tôi nhận thức ra là thế hệ tôi là thế hệ cuối cùng trong gia đình gắn bó máu thịt với Việt Nam. Các con tôi lớn lên chắc vẫn rất yêu Việt Nam, quý Việt Nam, thương Việt Nam, thích ăn đồ ăn Việt Nam nhưng sự gắn bó không bao giờ có thể được như những đứa trẻ như tôi được sinh ra và lớn lên, gắn bó từ nhỏ với Việt Nam. Có những thứ truyện cổ tích, những câu nói khéo, những câu tục ngữ, ca dao của Việt Nam nằm sâu ở trong tâm thức ở Việt Nam thì các con lớn lên ở Mỹ không bao giờ có thể hiểu và cảm nhận được.
Với tấm lòng nghĩ về Việt Nam và gửi gắm tình yêu quê hương cho các con thì đặt tên cho con thứ hai là Việt để mong các con luôn nhớ đến rồi làm nhiều việc tốt cho quê hương Việt Nam.
Cháu Minh được gặp Tổng thống Obama lúc 6 tuổi và được Tổng thống gửi cho lời chúc: “Dream big dreams” tức là “Hãy mơ những ước mơ lớn”. Hai cháu Minh và Việt cũng đã được gặp Tổng thống Biden lúc bạn Minh 12 tuổi. Tôi mong hai con lớn lên thành công ở Mỹ, nếu được thì tham gia vào chính trường Mỹ và làm rạng danh quê hương Việt Nam.
Minh Việt ý nghĩa cũng là một thứ đẹp, đó là mong muốn trong một tương lai tươi sáng, rạng rỡ cho đất nước Việt Nam. Khi đặt tên trường là Minh Việt, tôi muốn gửi gắm mong ước cho Việt Nam phát triển rạng rỡ, nhưng đồng thời để tên hai con thì tôi cũng muốn gửi cam kết là tôi luôn coi các cháu học sinh MVA như là con tôi.
Tôi mong học sinh MVA lớn lên sẽ mang những điều tốt đẹp và tươi sáng đến cho tương lai của đất nước. Minh Việt vì thế là một tên tốt để gửi gắm nhiều ý nghĩa chân thành.
Dù mới có cơ hội xem vài tập đầu trong Dự án San Du ký (Sanzuky) một dự án học mà chơi, có mục đích trồng người của MVA, nhưng tôi thực sự rất ấn tượng. Cảm giác hành trình ánh sáng của San thật giống với cuộc đời ông? Ông có thể chia sẻ thêm về dự án ý nghĩa này?
- San Du ký (Sanzuky) là một dự án tôi ấp ủ từ lâu và dành nhiều tâm huyết. Đó là hành trình của một cậu bé Việt Nam đi ra thế giới.
Dự án khởi đầu hồi tháng 6/2020, ban đầu dự định là một truyện truyền thanh dạng podcast phát hàng ngày như là một truyện đọc trước khi ngủ dành cho các cháu từ 8 tuổi trở lên. Cuối cùng chúng tôi biến các tập thành phim hoạt hình và đã làm được 84 tập. Các tập đều có hình họa do nhóm họa sĩ trẻ rất giỏi của Minh Việt vẽ, đi kèm âm nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Lê Tâm, và các hiệu ứng kỹ xảo đặc biệt của thày Nguyễn Long Hưng là giáo viên Đại học SKĐA. Nhóm làm San Du ký hiện có hơn 20 thành viên, người nào cũng yêu quý dự án và nhân vật San.
Nhân vật chính trong truyện là San, một bạn trai Việt Nam 12 tuổi. Tình cờ San được chọn tham gia một chuyến du hành vòng quanh thế giới cùng một nhóm các bạn trẻ quốc tế cùng tuổi để hỗ trợ thực hiện một sứ mệnh cao cả.
Để được chọn tham gia, các thành viên của Biệt đội Ánh sáng gồm 3 nam, 2 nữ đã phải trải qua những thử thách kỹ năng sinh tồn ở thảo nguyên Mông Cổ, ở biển đảo Philippines, ở rừng già Campuchia. Chuyến đi sau đó đưa nhóm qua rất nhiều quốc gia từ Hà Nội đi Trung Quốc, Campuchia, Singapore, vv. Hiện nay hành trình đang ở New Zealand và xin bật mí là hành trình sẽ đi tiếp lên Tân Đảo, Hawaii rồi qua Mỹ.
Các nội dung học tập được lồng ghép vào trong hành trình bao gồm kiến thức về lịch sử, địa lý, toán học, vật lý, khoa học nói chung, văn học, âm nhạc, văn hóa, ngoại ngữ. Các thành viên cũng được học các kỹ năng hoàn thiện con người có ích trong tự nhiên và trong đời sống hiện đại.
Chúng tôi tin rằng tham gia vào hành trình này, các bạn học sinh Việt Nam sẽ thu được lượng kiến thức rất lớn về thế giới, giúp các bạn thừa sức "sánh ngang với các cường quốc năm châu". Các bạn cũng sẽ phát triển được kỹ năng tư duy, lòng trắc ẩn, tinh thần công dân toàn cầu, ý thức trách nhiệm, và trên hết là tình yêu gia đình và tổ quốc.
Việt Nam hiện nay vẫn là một nước nghèo trên thế giới. Tiềm năng của chúng ta có rất nhiều, dân số đông và con người chăm chỉ lao động, nhưng có những thứ thuộc về lịch sử và số phận của một dân tộc khiến cho Việt Nam vẫn là nước nằm trong nhóm có thu nhập thấp trên thế giới. Trẻ em Việt Nam ta là con nhà nghèo nên ít có cơ hội đi ra khám phá thế giới.
Khi đi ra thế giới, người Việt Nam thường hơi chịu lép vế, cảm giác như thế giới thuộc về ai khác, chúng ta chỉ là những người đi nhờ trên chuyến tàu đi xa thế giới mà thôi. Xuất thân của tôi cũng là con nhà nghèo, nhưng may sao có được một sự kiên định về tính cách làm kim chỉ Nam cho đời sống. Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, mình vẫn không bỏ qua những nguyên tắc căn bản của con người về sống tình cảm, tử tế, giúp đỡ những người khó hơn, nghèo hơn mình. Mình luôn chăm lo cho gia đình và bè bạn, suy ngẫm những điều tốt đẹp, không làm điều gì xấu ngay cả khi đối mặt với nghịch cảnh, rủi ro, nguy hiểm. Dù thế nào đi nữa, mình nhận những cái thiệt về mình và nhường những cái lợi cho người khác trước.
Nói thì nghe giống như hô khẩu hiệu, nhưng với tôi, dù có phải đối mặt với cái chết đi chăng nữa, tôi cũng không lừa dối hay gây đau khổ cho người khác. Những nguyên tắc nằm lòng đó tôi muốn gửi gắm vào cậu bé San.
San đi ra thế giới để tiếp xúc với những giá trị phổ quát và đó là hành trình ánh sáng tiến tới một mặt trời chung của nhân loại. Rõ ràng trên thế giới có tồn tại một hệ giá trị chung, những thứ ánh sáng chung của nhân loại soi sáng cho cuộc đời của từng con người. Đứa trẻ nghèo Việt Nam đi về phía đó là điều rất tốt.
Tôi cũng khuyến khích con các gia đình dù nghèo cũng nên đi ra thế giới để biết mình là ai, đất nước mình như thế nào trong tương quan với thế giới. Muốn hoàn thiện mình và phát triển đất nước thì người trẻ bắt buộc phải đi ra để tiếp xúc với bên ngoài.
Tôi muốn gửi gắm mơ ước đi ra thế giới cho người trẻ Việt Nam thông qua hình tượng của San. Đây là một sê-ri thoạt nghe có vẻ giáo điều, rao giảng nhưng thực ra không phải vậy. San Du ký là một câu chuyện rất thú vị, có nhiều khoảnh khắc xúc động, hài hước, có nhiều mối duyên, mà tôi rất mong gửi gắm đến bạn đọc của Báo Đầu tư để mọi người cùng biết.
Tôi xin gửi link và mời bạn đọc cùng đón xem 83 tập đầu tiên miễn phí cho công chúng. Tôi rất mong Báo Đầu tư chuyển đến độc gia món quà của chúng tôi tặng cho tuổi trẻ và các gia đình Việt Nam để mọi người có thêm chất xúc tác, thêm cảm hứng để đi ra thế giới.
Như phần chia sẻ của ông thì tại MVA, những học sinh nghèo thường có thành tích học tập tốt hơn học sinh con nhà khá giả. Đây dường như là một nghịch lý, khi mà những học sinh ở vùng nông thôn thường chưa có nhiều kiến thức về tiếng Anh, chưa nghe nói được tiếng Anh mà vẫn có thể theo học một chương trình đào tạo của Mỹ và được dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, thưa ông?
- Triết lý ở Việt Nam lâu nay là việc học tiếng Anh chỉ là để biết tiếng Anh. Chúng ta nghĩ rằng, cứ phải học tiếng Anh đã rồi mới đi học cái khác được. Đó là một quá trình nhân đôi thời gian, công sức. Người ta rất khó để học ngoại ngữ đến mức đủ để học cái gì khác. Thậm chí có những người không bao giờ vượt qua được cửa ải học ngoại ngữ.
Học sinh MVA học ngoại ngữ thẳng qua quá trình học tập. Tiếng Anh không phải là mục đích học nữa, mà là học kiến thức. Lúc đầu, học sinh có thể không biết nhiều tiếng Anh nhưng rồi giống hệt cách các cháu học tiếng Việt, sau một thời gian ngắn học kiến thức thì tiếng Anh cứ dần dần thấm vào. Các học sinh sẽ có tiếng Anh chuẩn với phát âm giống hệt các giáo viên Mỹ.
Sau ba năm vận hành, Minh Việt đã tạo ra hàng ngàn học sinh giỏi tiếng Anh mà cha mẹ không giải thích được vì sao các bạn lại giỏi thế. Chẳng qua là các cháu học kiến thức rồi tiếng Anh tự ngấm vào. Đó là cách dễ nhất để có tiếng Anh.
Ngay cả những học sinh chỉ biết vài từ tiếng Anh lúc bắt đầu thì sau khi vào học trong môi trường MVA được nghe các giáo viên Mỹ dạy bảo hàng ngày, được hướng dẫn cách đọc cách học thì rồi tự nhiên cũng biết đủ kiến thức bằng tiếng Anh.
Có nhiều học sinh của Minh Việt sống ở nông thôn, ở những nơi người ta không có điều kiện học thêm tiếng Anh ở bất kỳ đâu, nhưng do nhờ học Minh Việt, các cháu bây giờ nói tiếng Anh như trẻ con Mỹ. Người ngoài nghe các cháu nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh thì đoán cháu bé là Việt kiều hay là cha mẹ chắc phải đầu tư nhiều tiền bạc cho cháu học. Kỳ thực là gia đình chỉ tiêu vài trăm USD một năm, một đến cùng lắm là hai năm học là đạt được thành quả như thế rồi.
Đây là một món quà tuyệt vời cho các con, vì các con không chỉ có kiến thức giống như học sinh cùng tuổi ở Mỹ mà còn nói tiếng Anh đúng như một trẻ Mỹ. Sau này lớn lên nhờ ngữ điệu đó thì các cháu đi đâu cũng sẽ gặp nhiều điều thuận lợi.
Tôi muốn khẳng định với các bậc phụ huynh rằng, cha mẹ hãy vững tin, các con không cần biết tiếng Anh vẫn có thể bắt đầu thu thập được kiến thức qua việc học với MVA. Còn tiếng Anh sẽ tự đến bất ngờ như một phép màu dù mục đích không hề là học tiếng Anh. Tuy nhiên, bên cạnh những lớp học kiến thức, chúng tôi vẫn cung cấp các lớp bổ trợ tiếng Anh miễn phí cho các học sinh do các cô giáo Mỹ dạy hàng ngày.
Thực sự, MVA là mô hình giáo dục tôi nghĩ là cực kỳ hợp lý cho các gia đình nghèo. Học phí của trường không đáng bao nhiêu nhưng các con vẫn được học chương trình phổ thông Mỹ và nhận được chương trình bổ trợ tiếng Anh đáng mấy chục triệu đồng ở nơi khác.
Tôi cũng tò mò tại sao ở Trường Minh Việt, ngoài chương trình cho các học sinh, lại có những chương trình đào tạo dành cho phụ huynh, thưa ông?
- Minh Việt có một chương trình mà chúng tôi gọi là Minh Việt Học tập (Minh Việt Learning – MVL) là chương trình học tập dành cho người trưởng thành. Trong chương trình này có 4 lớp tiếng Anh: hai lớp học bằng tiếng Việt, hai lớp học bằng tiếng Anh với cô giáo Mỹ, 10 lớp ngoại ngữ 2 (Trung, Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Nhật), lớp học tiếng Anh qua ẩm thực, lớp Tài chính Cá nhân, Lập luận, vv.
Hai năm đầu của MVA, chúng tôi cung cấp các lớp này cho phụ huynh hoàn toàn miễn phí. Từ năm thứ ba trở đi, để duy trì chương trình được tốt, chúng tôi thu thêm một khoản phí rất nhỏ cho chương trình này. Các phụ huynh có thể học bao nhiêu tùy thích tất cả các lớp mà MVL dạy.
Lý do chúng tôi xây dựng chương trình Minh Việt Học tập dành cho người trưởng thành và phụ huynh MVA là vì chúng tôi suy nghĩ rằng, các bố mẹ, ông bà cũng đã từng có thời là trẻ em. Do hoàn cảnh lịch sử khi đó đất nước còn nghèo đói, chiến tranh, hoặc do điều kiện kinh tế gia đình còn kém thì họ không được tiếp cận nguồn tri thức, kiến thức. Họ không được học ngoại ngữ hay kiến thức gì cụ thể vì không ai cho họ cơ hội đó.
Minh Việt Học tập là cách chúng tôi bù đắp cho tuổi thơ và tuổi trẻ của họ. Chúng tôi tạo điều kiện không chỉ cho các con học mà còn cho cả bố mẹ học song song với con. Theo tính toán của chúng tôi, nếu các gia đình đóng khoản học phí dành cho cả gia đình chỉ khoảng vài chục đô la một năm thì cả gia đình gồm bố, mẹ, ông, bà, học sinh và anh chị em cùng học những lớp kiến thức, ngoại khóa, ngoại ngữ tiếng Anh và ngoại ngữ 2, thì chia trung bình mỗi giờ học trực tuyến chất lượng cao chỉ có giá khoảng 500 đồng Việt Nam, là số tiền người ta gần như không thể mua được cái gì. Đây là chi phí học tập thấp không tưởng phản ánh cam kết của chúng tôi với sự nghiệp học tập suốt đời.
Chúng tôi tạo điều kiện cho các phụ huynh học cũng là một cách để tạo dựng sự gắn bó qua việc bố mẹ đồng hành học tập cùng các con, chứ đây hoàn toàn không phải để tiếp thị hay mời chào.
Ông vừa nhắc đến câu chuyện tiếp thị. Tôi chợt nhận ra rằng, Trường Minh Việt đã bước sang năm thứ 4 nhưng không hề thấy truyền thông trên báo chí hay mạng xã hội, dù nhiều học sinh của Minh Việt đã đạt điểm tiếng Anh cao ngất ngưởng ở những đấu trường quốc tế và đi du học tại Mỹ. Dường như câu “Hữu xạ tự nhiên hương” thật đúng ở dự án Minh Việt, thưa ông?
- Trong 20 năm khoảng từ năm 2000 trở đi, tôi bắt đầu làm công việc uốn nắn, chăm sóc, đào tạo mỗi năm một bạn học sinh Việt Nam thường là từ lớp 9 trở đi. Việc này tôi làm hoàn toàn miễn phí nhưng bạn học sinh tôi chọn thường có những nếp học chuyên cần hay sáng dạ nào đó mà tôi thấy có khả năng cao thành công trong môi trường học tập ở Mỹ.
Tất cả những bạn tôi từng hướng dẫn như vậy đều đạt được thành công, tất cả đều học đại học ở Mỹ, nhiều người làm tiến sỹ, vài người trở thành giáo sư dạy đại học ở Mỹ, hay làm việc cho các công ty công nghệ nổi tiếng thế giới có người thành kinh tế gia cao cấp của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ.
Xác suất thành công của tôi trong việc định hướng 20 bạn đó là 100%. Tuy vậy tôi chỉ có thể hỗ trợ mỗi năm một bạn vì việc này rất mất thời gian, đặc biệt là lúc các bạn chuẩn bị nộp đơn đi học đại học ở Mỹ.
Câu hỏi của tôi ở đây là, liệu có cách nào không tốn thời gian để huấn luyện cho nhiều học sinh cùng lúc hay không. Tôi ngẫm nghĩ và quyết định là nếu muốn chuẩn bị cho nhiều học sinh đi Mỹ học đại học thì tôi cần bắt đầu dạy dỗ các bạn từ rất sớm chứ không thể chỉ bắt đầu từ lớp 9.
Dự án MVA đã bước sang năm thứ tư. Tôi bắt đầu cảm thấy vững tin, triết lý của mình là có giá trị nhất định và chương trình mang lại những lợi ích tốt. Mang lại lợi ích ở đây là lợi ích vượt xa mức học phí mà gia đình đóng.
Ít ra về tiếng Anh và hiểu biết của thế giới thì cái lãi của gia đình phải đạt khoảng 500 – 700%. Còn lợi ích của ngôn ngữ tiếng Anh và giọng điệu, ngữ điệu chuẩn của Mỹ có thể nói là giá trị suốt đời mang lại cho đứa trẻ rất nhiều, không thể đo đếm được bằng tiền.
Ba năm qua, tôi kiên quyết không quảng cáo, không tiếp thị, không chào mới chính là xuất phát ở chỗ cá nhân, bản thân tôi có một sự nghi ngờ mà tôi cho là một sự nghi ngờ hợp lý, một sự nghi ngờ lành mạnh về ý nghĩa cũng như triết lý của dự án. Chính bản thân tôi nghi ngờ liệu dự án có phải là một dự án đúng đắn, hợp lý, có thể mang lại lợi ích hay không. Tôi cần thiết phải có một khoảng thời gian để dự án thực nghiệm và tôi phải nhìn thấy kết quả, kết quả phải thuyết phục được bản thân tôi thì tôi mới dám đi chia sẻ với người khác.
Tôi rất cảm ơn Báo Đầu tư đã hỏi về dự án và cho tôi được kể về thành công của chúng tôi. Chúng tôi vẫn luôn luôn ý thức điều chỉnh để làm sao chương trình này ngày càng mang lại nhiều hơn lợi ích cho các gia đình và các học sinh Việt Nam.
Không bao giờ chúng tôi dám chủ quan coi mình là nhất, là hay, là chắc chắn thành công. Đây là triết lý của chúng tôi và rất cần có sự hợp tác của nhà trường với học sinh, nhà trường với gia đình, gia đình với học sinh, tức là hợp tác ba bên mới có thể phát huy được hết triết lý này.
Trường Minh Việt chính là cách mà tôi muốn các em học kiến thức, phong cách, tiếng Anh của trường học Mỹ từ lúc còn bé, để tới khi các em nộp đơn đi Mỹ học đại học năm lớp 12, thì công việc của tôi đã nhẹ đi rất nhiều. Học sinh Minh Việt được học thêm rất nhiều môn bổ trợ mà ngay cả trường tư ở Mỹ cũng không dạy.
Các em được học SAT là chương trình chuẩn bị thi đại học Mỹ, chương trình viết học thuật, hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi có chương trình Cố vấn Nghề nghiệp và Tư vấn Nộp đơn Đại học do hai cô giáo tốt nghiệp Đại học Harvard và Đại học Berkeley lãnh đạo, và học sinh MVA cũng được học chương trình đó hoàn toàn miễn phí.
Lúc khởi đầu dự án MVA, tôi nghĩ là hiệu quả của việc đào tạo cho nhiều người cùng lúc thế này thì chưa có kiểm chứng. Tôi là người đưa ra triết lý của dự án thì cũng phải là người đầu tiên nghi ngờ về hiệu quả và thành công của dự án. Bởi vì nếu mình cứ nghĩ rằng ý tưởng của mình là tốt, chắc chắn sẽ thành công, và mình đi khuyến dụ mọi người tin vào sự thành công đó. Nhưng nếu dự án thất bại thì mình sẽ trở thành vô trách nhiệm với con cái cũng như là học phí mà mọi người đóng góp.
Thế nên, ngay từ đầu tôi chỉ đưa ra những phân tích khách quan, không bao giờ tôi dám hứa hẹn hay là khen chương trình của mình, mặc dù vẫn luôn tự hào về những thành quả của học sinh MVA. Đó chính là lý do tại sao chúng tôi không quảng cáo hay tiếp thị, không nhờ ai loan báo mời chào người khác theo học. Chúng tôi tin là nếu có duyên thì gia đình và học sinh sẽ đến với chúng tôi.
Dự án MVA đã bước sang năm thứ tư và chúng tôi đã thu được vô cùng nhiều kết quả tốt là tiến bộ của các học sinh. Tôi bắt đầu cảm thấy vững tin rằng triết lý của mình là có giá trị và chương trình mang lại những lợi ích tốt cho gia đình. Những lợi ích chúng tôi mang lại thường có giá trị vượt xa mức học phí mà gia đình đóng.
Riêng lợi ích của kiến thức thế giới học bằng tiếng Anh, ngôn ngữ tiếng Anh và giọng điệu, ngữ điệu chuẩn của Mỹ thì có thể nói là giá trị mang lại cho đứa trẻ rất nhiều trong suốt đời, không thể đo đếm được bằng tiền.
Ba năm qua, tôi kiên quyết không quảng cáo, không tiếp thị, không chào mới chính là xuất phát ở chỗ cá nhân, bản thân tôi có một sự nghi ngờ mà tôi cho là một sự nghi ngờ hợp lý, một sự nghi ngờ lành mạnh về ý nghĩa cũng như triết lý của dự án. Chính bản thân tôi nghi ngờ liệu dự án có phải là một dự án đúng đắn, hợp lý, có thể mang lại lợi ích hay không. Tôi cần thiết phải có một khoảng thời gian để dự án thực nghiệm và tôi phải nhìn thấy kết quả, kết quả phải thuyết phục được bản thân tôi thì tôi mới dám đi chia sẻ với người khác.
Tôi rất cảm ơn Báo Đầu tư đã hỏi về dự án và cho tôi được kể về thành công của chúng tôi. Chúng tôi vẫn luôn luôn ý thức điều chỉnh để làm sao chương trình này ngày càng mang lại nhiều hơn lợi ích cho các gia đình và các học sinh Việt Nam.
Không bao giờ chúng tôi dám chủ quan coi mình là nhất, là hay, là chắc chắn thành công. Đây là triết lý của chúng tôi và rất cần có sự hợp tác của nhà trường với học sinh, nhà trường với gia đình, gia đình với học sinh, tức là hợp tác ba bên mới có thể phát huy được hết triết lý này.
Với khát khao cháy bỏng đưa được thật nhiều học sinh, thanh niên Việt Nam đi ra toàn cầu, sắp tới Trường Minh Việt có mở rộng dự án không, thưa ông?
- Nếu như Minh Việt là một ý tưởng lành mạnh, sáng tạo, có ích đúng như chúng tôi vừa quan sát được trong ba năm nay thì đã đến lúc cần phải quảng bá cho ý tưởng này. Và tất nhiên là, khi có đông học sinh học thì học phí sẽ lại càng thấp, từ đó làm lợi cho đất nước thông qua việc tạo ra những trẻ em sau này trở thành những người lao động chất lượng cao theo chuẩn thế giới với chi phí cực kỳ thấp.
Nếu như họ có trình độ Anh ngữ tốt và hiểu biết tốt về thế giới thì tất nhiên đất nước hưởng lợi đầu tiên chứ không phải chúng tôi. Học phí của trường cho đến nay đã giảm một nửa so với khi khai giảng năm đầu tiên và lương của anh chị em ở trong dự án thì đều tăng tối thiểu là 20%.
Nhưng do không quảng cáo, sĩ số của chúng tôi từ đầu đến giờ không thay đổi, mặc dù là số lớp tăng lên. Như thế có nghĩa là sĩ số trung bình lớp của chúng tôi đã giảm. Bởi vì lúc đầu chỉ có 4-5 lớp mà sĩ số đã được bằng 14 cấp lớp như hiện nay.
Sĩ số giảm, thu nhập của các thành viên dự án cao lên, học phí giảm còn một nửa, như thế có nghĩa là thu nhập của chúng tôi đang giảm, luôn luôn trên đường giảm. Và chúng tôi tình nguyện cam kết học phí sẽ tiếp tục giảm. Đường của học phí chỉ có đi xuống chứ không đi lên. Không bao giờ chúng tôi tăng học phí. Đó là cam kết một phía từ chúng tôi. Không ai bắt cả, nhưng chúng tôi tình nguyện làm như vậy.
Và nếu dự án tốt như thế, thì cũng đã đến lúc chúng tôi nói rộng rãi ra để cho nhiều người cùng biết về cơ hội học tập cho con cái của họ, cho những gia đình không có điều kiện.
Chúng tôi cũng bắt đầu đi vào hợp tác với các địa phương. Ví dụ, ở Lạng Sơn có Công ty Xuân Cương vừa hợp tác với MVA và muốn áp dụng mô hình của Minh Việt cho con cái của khoảng 700 nhân viên của họ.
Mô hình giáo dục của Minh Việt rất rẻ, rất hợp với các công ty hay các tổ chức hay các tỉnh muốn mở rộng mô hình giáo dục quốc tế cho trẻ em với chi phí thực sự rất thấp. Học phí thấp đến mức mà bất kỳ tỉnh nào dù nghèo đến bao nhiêu cũng có thể cho học sinh học được. Và khi làm việc với các tỉnh thì chúng tôi sẵn sàng giảm học phí thấp nữa.
Tôi tin rằng, bất kỳ tỉnh nào quan tâm hợp tác với MVA thì chỉ 1 đến 2 năm sau họ sẽ thấy chất lượng của học sinh tại địa phương trên thước đo học sinh quốc tế sẽ tăng lên rất nhanh.
Và tôi tin rằng, nếu như một tỉnh mở ra những chương trình đào tạo cho chẳng hạn 2.000 học sinh học, thì 2.000 người đó sau này sẽ là những người mang lại những lợi ích vô cùng lớn cho tỉnh, gấp hàng trăm, hàng ngàn lần chi phí mà tỉnh bỏ ra ngày hôm nay.
Đó là hướng đi chúng tôi mong muốn có sự hợp tác với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, những nơi có lực lượng lao động lớn và các địa phương.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã được Viện Toán thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam gửi gắm muốn chúng tôi tạo ra những chương trình Toán - Tiếng Anh cho các học sinh tiểu học và trung học phổ thông.
Đây là một hướng mà chúng tôi làm với tinh thần tình nguyện. Các chi phí ban đầu cho chương trình này do chúng tôi tài trợ để đưa toán đến cho các học sinh Việt Nam với mong muốn sau này đưa các em ra thế giới. Rồi khi thành tài, các em mang kiến thức, hiểu biết, thu nhập về cho quê hương.
Mong muốn của chúng tôi là mỗi năm có thể đào tạo chừng 10.000 học sinh Việt Nam giỏi toán và giỏi tiếng Anh với hiểu biết thế giới. Sau đó đưa họ ra thế giới. Họ sẽ mang lại những nguồn lợi kinh tế hàng tỷ USD cho đất nước.
Hiện nay, trong cuộc cách mạng số, cách mạng dữ liệu, cách mạng của học máy, cách mạng của trí thông minh nhân tạo, cả thế giới cần những người lao động chất lượng cao, có tiếng Anh tốt và có hiểu biết về toán thật tốt. Đây là một cơ hội cho Việt Nam bắt kịp với thế giới và chúng tôi mong muốn đi đầu trong lĩnh vực giảng dạy Toán nâng cao bằng tiếng Anh cho học sinh. Các em sẽ trở thành những người lao động tri thức tương lai đi ra thế giới để làm vinh dự cho đất nước, mang lại những lợi ích thực tiễn cho gia đình và Tổ quốc.
Từ một đứa trẻ con nhà nghèo bước ra toàn cầu với hành trình ánh sáng, trong lòng ông Phạm Tuấn Anh luôn tràn ngập cảm giác biết ơn. Ở tuổi 46, bí quyết hạnh phúc của ông chính là phục vụ chứ không phải được phục vụ. Quan niệm của ông là phải biết chia sẻ, phải gánh vác, phải đỡ đần, phải trở thành chỗ dựa cho người khác đi hành trình cuộc đời của họ.
“Hạnh phúc với tôi thực ra rất đơn giản. Hạnh phúc chính là làm cho người khác hạnh phúc. Hạnh phúc chính là chia sẻ và phụng sự”, ông Phạm Tuấn Anh thổ lộ.
Trong video “Em đi trong tươi xanh”, tâm thư của ông hồi tháng 9 năm ngoái, tôi được biết mỗi năm gia đình ông sẽ cho các con đi khám phá hai quốc gia. Chắc hẳn một công dân toàn cầu như ông rất coi trọng việc con người được vươn ra thế giới?
- Câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” là câu áp dụng được cho tất cả chúng ta ở mọi nơi.
Người ta không cần phải đi những chuyến đi nước ngoài đắt tiền mới nhận được lợi ích của việc lên đường. Mỗi chúng ta đây đều từng ra khỏi quê hương, ra khỏi lũy tre làng, ở những vùng quê xa đi về thị trấn, lên huyện, lên tỉnh, tới các thành phố lớn để học tập và làm việc. Những hành trình cá nhân đó cũng là những cơ hội trải nghiệm và học tập, cơ hội mở mang nhận thức.
Mỗi chuyến đi như vậy giúp chúng ta học được thêm rất nhiều điều. Chúng ta trở thành một phiên bản cải thiện của chính bản thân mình. Nếu như chúng ta cứ ở lại quê hương, dù có đọc sách hay xem tivi, thì chúng ta vẫn là một người ở mãi sau lũy tre làng. Chúng ta không biết món sushi là cái gì, ly trà sữa là gì, không biết máy ATM là gì.
Thế giới là một thứ hàng hóa công cộng mang nặng tính chung. Là hàng hóa công cộng, nó không thể loại trừ ngăn ngừa bất kỳ ai hưởng thụ nó. Tất cả chúng ta hoàn toàn có quyền đi ra thế giới để trải nghiệm cảm giác thế giới này là của chúng mình. Bước chân đi ra khỏi nơi chúng ta sinh ra lớn lên là bước đầu tiên phải làm để tiếp nhận quyền sở hữu của chúng ta đối với thế giới.
Mỗi chúng ta ai cũng chỉ có một cuộc đời thôi. Chúng ta cần phải sống làm sao để luôn có một phiên bản cải thiện của chính mình. Rời quê hương đi ra, tức là chúng ta đang nỗ lực để cải thiện, cải tạo chính bản thân mình.
Càng đi xa, chúng ta càng có nhiều phiên bản giống như cái bánh sừng bò có nhiều lớp bột, nó được nhào nặn bởi hàng trăm, thậm chí hàng ngàn lớp gấp. Mỗi lần chúng ta đi ra thế giới là một lần nhào bột và thu thập kiến thức, những điểm tốt của thế giới vào bản thân của chúng ta.
Đi xa giúp cải thiện tầm nhìn của chúng ta với hiểu biết khác biệt, suy tư khác biệt, triết lý khác biệt, nhờ vậy chúng ta luôn tự cải thiện trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.
Khi đi ra thế giới, chúng ta cũng không chỉ cảm nhận thế giới tốt hơn, mà còn thông qua thế giới để cảm nhận ngược lại chính mình tốt hơn. Chúng ta đi thì chúng ta mới biết lũy tre làng của chúng ta như thế nào, chúng ta mới biết sự tương đồng, tương phản của quê hương so với thế giới. Khi ở quê hương, chúng ta như người dí sát mắt vào một bức tranh và không thể thấy hết những chi tiết ở trong đó. Chúng ta cần đi ra thế giới và nhìn ngược lại về quê hương để có cái nhìn tổng thể.
Tôi đặc biệt khuyến khích các bạn trẻ đi ra thế giới. Những bước đi đầu tiên chập chững thường khiến chúng ta lo sợ, e ngại. Đi ra thế giới không chỉ đơn giản như đi shopping, mà là cơ hội để hiểu bản thân và hiểu xã hội, hiểu đất nước, hiểu con người, hiểu chính mình.
Tôi áp dụng triết lý đó với các con ở trong gia đình. Mỗi năm, các cháu sẽ được đi thăm hai nước. Hiện nay, một bạn 15 tuổi và một bạn 10 tuổi đã đi được gần 40 quốc gia. Có những quốc gia, các cháu đã đi nhiều lần.
Tôi mong muốn trẻ em Việt Nam cũng được như vậy. Tất nhiên, không phải gia đình nào cũng có điều kiện cho con đi khám phá nước ngoài, nhưng việc mong muốn đi ra thế giới là việc cực kỳ quan trọng bởi vì mong muốn bước chân ra đồng nghĩa với việc mong muốn cải thiện bản thân, tạo ra phiên bản tốt hơn, mới hơn của bản thân mình, sống một cuộc sống khai thác trọn vẹn tiềm năng con người có sẵn ở trong mình để làm sao cuộc sống làm người ngắn ngủi này có vẹn tròn ý nghĩa.
Xem những video về các thành viên của Team Minh Việt, tôi cảm nhận được Minh Việt là môi trường làm việc rất văn minh, gắn kết, sáng tạo và đáng mơ ước. Ông đã làm thế nào để tạo dựng được một không gian làm việc tuyệt vời như thế?
- Đi đâu tôi cũng khoe team Minh Việt là team mơ ước, là một team làm việc xuất sắc tôi chưa bao giờ từng có.
Trước hết, tôi nghĩ nguyên nhân sâu xa nhất để mọi người gắn bó chính là vì chúng tôi chia sẻ tình cảm yêu quê hương, cùng muốn quê hương phát triển. Chúng tôi mong mang những điều tốt đẹp nhất của thế giới về cho quê hương và đồng thời khi có thể thì mang những điều tốt của quê hương đi ra thế giới.
Tuy đây là con đường hai chiều nhưng chúng ta chưa xuất khẩu được nhiều văn hóa, triết lý, tư tưởng, của chúng ta ra thế giới. Cùng lúc đó, những món ăn tinh thần chất lượng cao, lành mạnh của thế giới thì nhiều nơi khác nhập về và bán với giá rất đắt.
Ngược lại, chúng tôi quyết tâm mang những thứ tốt đẹp của thế giới về và cung cấp cho người trong nước ta với chi phí càng thấp càng tốt để người trong nước nếu không ra ngoài cũng được thưởng thức tinh thần thế giới chất lượng cao mà không tốn phí nhiều.
Đơn cử, dự án San Du ký kéo dài hàng trăm tập, mỗi gia đình đăng ký chỉ cần bỏ ra 100 USD, tức là chưa đến 1 USD mỗi tập thì đã có được một món ăn tinh thần để lại những ấn tượng và lượng kiến thức tuyệt vời. Tất nhiên, chúng tôi cũng vẫn phải thu phí để ngân sách vận hành, nhưng lợi nhuận không phải và chưa bao giờ là mục tiêu của team Minh Việt.
Chúng tôi không lo đến lợi nhuận, mà chỉ lo đến cách làm sao để mỗi cá nhân thành viên trong team được phát huy hết tài năng của họ. Minh Việt luôn tạo điều kiện cho những ai có mong muốn được thể hiện bản thân, thể hiện tài năng, được là chính mình, miễn là mục tiêu và ý chí của họ nhất quán với mục tiêu của dự án.
Trong một môi trường làm việc như thế, thì tự nhiên có một sự tôn trọng lẫn nhau và trong đó chúng tôi không có ai là sếp của ai. Không bao giờ người ta nói đến tôi như là một người Chủ tịch của dự án. Thậm chí tôi hay nói đùa là các bạn trẻ trong dự án bắt nạt tôi suốt.
Đấy chính là sự tôn trọng người khác. Mình càng đi xa, mình càng hiểu nhiều, mình càng biết nhiều thì mình lại càng khiêm tốn. Mình khiêm tốn với những người chưa đi xa, chưa hiểu biết nhiều thì việc đó tạo ra suy ngẫm trong họ rằng họ cũng muốn như mình. Họ cũng muốn đi ra xa, muốn nghiên cứu về thế giới, cũng muốn được bay bổng, được thăm Paris, New York, được đến Mỹ… được trải nghiệm tất cả những thứ như thế.
Vậy thì mình phải là người dẫn dắt cho họ. Mình phải cam kết là người hướng dẫn viên, là người chỉ đường cho mỗi người. Mình cầm tay họ ân cần, đưa họ ra thế giới. Điều này không chỉ đúng với các bạn trong team Minh Việt mà đúng với tất cả những người mà chúng ta gặp ở trong đời.
Triết lý sống của tôi là khi đến với ai hay ai đến với mình thì sau đó cuộc đời của họ phải tốt lên một chút. Mình phải có trách nhiệm, phải cải thiện cuộc đời của họ để người ta đến với mình xong, người ta phải có một món quà gì đó, một món quà của số phận, của tinh thần, của suy ngẫm. Khi cần thì là món quà vật chất, khi khác thì là một món quà cơ hội.
Triết lý của tôi là thà mình thiệt, kém, thậm chí mất đi cái gì đó, nhưng những người đến với cuộc đời của mình thì mình phải chăm sóc, phải tặng cho họ một món quà để họ ra đi thật là hạnh phúc.
Triết lý này tôi áp dụng trong cả cuộc đời cũng như là với những bạn ở trong Minh Việt. Có lẽ, đó là một trong những bí quyết để team MVA làm việc hết mình vì nhau. Và có một triết lý hy sinh vì nhau như vậy sẽ giúp kết nối của nhóm ngày càng khăng khít, bền chặt.
Ở tuổi 46, ông quan niệm thế nào là hạnh phúc và điều gì sẽ làm ông hạnh phúc?
- Câu hỏi của nhà báo rất hay. Ngày hôm nay thế giới của chúng ta có nhiều thông tin nhiễu loạn khiến cái tâm của chúng ta bị xoay như chong chóng. Không ai thích cảm giác đó cả. Tìm ra ý nghĩa của cuộc sống chính là cách tìm ra sự bình an, bình ổn, như một sự đóng neo vào đâu đó khi mà dòng đời xoay chuyển bất ngờ.
Tôi luôn nói với mọi người và các em của mình rằng, sự thành công và tiền bạc chỉ là một phần nhỏ trong đời thôi. Thành công về danh vị, sự nổi tiếng khi mà công chúng thừa nhận con người chúng ta, kết quả lao động của chúng ta, cũng chỉ là một phần thôi.
Điều quan trọng nhất ở trong cuộc đời là một cảm giác hạnh phúc, có nghĩa là mình vững tin vào bản thân mình. Mình luôn đắm chìm trong một cảm giác bình an, dù cuộc sống có thay đổi thế nào đi nữa.
Cuộc sống hạnh phúc không có nghĩa là cuộc sống không có bất hạnh. Ví dụ, chị chia sẻ chị là đứa trẻ mồ côi bố, hay mẹ của tôi cũng là một người mất bố từ năm mới nửa tuổi. Có những người phải trải qua những sự bất hạnh như thế, lớn lên thiếu hẳn vai trò của ai đó quan trọng trong đời. Những người như vậy là những người tàn tật, mà người đời không nhìn thấy sự đau khổ của họ vì họ bị thương tổn ở sâu trong lòng.
Người đời vì không nhìn thấy sự đau đớn đó, vì nỗi đau đó không phản chiếu ra bên ngoài, nên rất dễ cư xử với những người này không được trân trọng như là cách người ta cư xử với một người tàn tật ngồi xe lăn chẳng hạn.
Điều quan trọng đối với cả hai bên trong mối giao tiếp xã hội như thế, người có lòng đau khổ với người đời vô tình, thờ ơ, thì để có được hạnh phúc, mỗi bên phải xác định được vị thế đúng của họ. Những người như chị hay như mẹ tôi khi trẻ chưa có kinh nghiệm cuộc sống, có khi rất dễ tự ái, rất dễ tủi thân rồi nghĩ rằng, những lời lẽ của người khác nói với mình gây tổn thương. Bởi vì, những vết thương mất cha, mất mẹ không bao giờ có thể lành lại được.
Những người đó đau khổ, nhưng không có nghĩa cuộc sống của họ không thể có hạnh phúc. Vì mất mát là một phần dĩ nhiên ở trong cuộc đời. Có người xảy ra sớm, có người đến muộn, nhưng không ai có thể thoát ra khỏi được sự mất mát khi nhìn thấy người thân xa rời mình.
Mở rộng ra là dù có những mất mát về người thân, về cơ hội, về vật chất…, nhưng sau tất cả những thứ mất mát nghiễm nhiên và tất yếu như thế, thì liệu chúng ta có thể có được hạnh phúc hay không?
Tôi luôn đặt ra bài toán cho các em mà mình dẫn dắt 20 năm qua và những em học sinh Minh Việt cũng thế, tôi luôn nói rằng họ phải tập trung vào phát triển cảm giác hạnh phúc và bí quyết của hạnh phúc cũng rất đơn giản thôi.
Bí quyết của hạnh phúc chính là phục vụ chứ không phải là được phục vụ. Đó là điều cực kỳ quan trọng. Nếu chúng ta có một thứ hạnh phúc chỉ là được phục vụ, tức là chúng ta có vị thế cao, có tiền bạc rồi người ta phải cầu cạnh, tung hô, thán phục chúng ta, thì đó cũng chỉ là thứ hạnh phúc thoáng qua, không bền vững và là thứ hình thức ở bên ngoài thôi.
Nhưng thứ hạnh phúc ở bên trong sẽ bền, sẽ lâu, sẽ tạo ra niềm vui mãi mãi để giúp chúng ta có sức lực để vượt qua những thứ đau khổ đó chính là được phụng sự con người.
Mỗi chúng ta ở đây đều đi cùng một hành trình giống nhau là hành trình xuyên qua cuộc đời. Mỗi người đi một kiểu, nhưng hành trình đó không bao giờ là dễ với tất cả mọi người nếu không nói rất khó. Nhiệm vụ của chúng ta là phải hỗ trợ làm sao cho hành trình đi xuyên cuộc đời của càng nhiều người trở nên càng dễ hơn càng tốt. Chỉ khi đó chúng ta mới thể hiện được hết ý nghĩa của cuộc đời của chính chúng ta.
Cho nên, quan niệm của tôi là phải biết chia sẻ, phải gánh vác, phải đỡ đần, phải trở thành chỗ dựa cho người khác đi tốt hành trình cuộc đời của họ trong phạm vi có thể của chúng ta. Chúng ta làm hết sức có thể được, khi đó chúng ta sẽ có được hạnh phúc cho riêng mình.
Dù là người chịu nhiều thiệt thòi, mất mát như chị hay như mẹ tôi, để bù đắp cho khoảng trống tưởng như không thể nào lấp đầy trong đời, chúng ta cần đổ vào những chỗ trống đó tình yêu và sự cảm tạ người khác mang đến. Khi làm cho người khác vui và đỡ bất hạnh thì chính hạnh phúc trong lòng chúng ta sẽ lấp đầy những chỗ đau khổ đó.
Vì thế, quan điểm của tôi về hạnh phúc thực ra rất đơn giản. Hạnh phúc chính là làm cho người khác hạnh phúc. Hạnh phúc chính là chia sẻ và phụng sự.
Bây giờ anh đang sống ở Mỹ là một quốc gia đáng đến và đáng sống. Bất cứ người dân nào trên hành tinh này cũng đều mong muốn được sống và làm việc ở một quốc gia phát triển như thế. Còn Việt Nam, trên hành trình gian trở thành điểm đến mơ ước, theo ông, đâu là những điểm Việt Nam cần phải làm ngay bây giờ?
- Tôi nghĩ rằng, một đất nước trước hết phải chăm sóc con người của họ. Một đất nước đáng sống là phải chăm sóc cho lợi ích của người dân. Những người đầu tiên cần được giúp đỡ là những người yếm thế ở trong xã hội. Một đất nước đáng sống phải bắt đầu bằng việc chăm sóc những người yếu đuối như trẻ em, người già,...
Hiện nay, Việt Nam đã có những chính sách giúp đỡ cho trẻ em, nhưng với người già thì hoàn toàn chưa có luật bảo vệ nhân phẩm cho người cao tuổi.
Về người tàn tật, chúng ta cũng có chưa có những chính sách xã hội để hỗ trợ họ. Ví dụ, thông thường ở nước ngoài sẽ có lối đi dành cho người tàn tật thì Việt Nam chưa có.
Ở Hoa Kỳ, thời Tổng thống Obama đã có những bước đi đầu tiên để hỗ trợ Việt Nam để đưa ra các luật hỗ trợ người tàn tật và người yếm thế nói chung. Sẽ rất là vui nếu như ở Việt Nam, các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội thực sự có những hành động cụ thể. Và phải luật hóa những chính sách cho người tàn tật hay người già.
Dường như lúc người già đến tuổi nghỉ hưu là xã hội chúng ta coi như hết trách nhiệm với họ. Chúng ta phải tiếp tục nâng đỡ người già, vì điều này có nghĩa là chúng ta chăm sóc cho tương lai của chính chúng ta. Như vậy, người già không phải là quá khứ. Người già là tương lai, trẻ em cũng là tương lai. Cả hai đối tượng đó phải được chăm sóc tốt.
Tiếp theo, người ốm, người bệnh chúng ta không thể để họ chịu cảnh 3 - 4 bệnh nhân chung một giường bệnh. Phải làm bất kỳ điều gì để khắc phục tình trạng này. Mỗi chúng ta phải tự nhận thấy sự đau khổ của người khác là đau khổ của cá nhân giống như câu “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể có những biện pháp để chữa lành cho những con ngựa đau.
Dân tộc Việt Nam, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam luôn để lại trong trái tim mỗi người một động lực, một cảm hứng mạnh mẽ để chúng ta luôn có thể cùng nhau nhìn về tương lai với đôi mắt lạc quan nhất của mình. Bây giờ, khát khao lớn nhất của ông là nhìn thấy người Việt, đất nước Việt Nam phát triển như thế nào? Thời gian tới ông sẽ vẫn thường xuyên về Việt Nam như thời gian qua chứ?
- Việt Nam là quê hương yêu dấu mà tôi không bao giờ có thể rời ra được. Đến tuổi càng lớn thì tôi càng cảm nhận cái tình với Việt Nam càng gắn bó. Sự trở về Việt Nam của tôi chủ yếu không phải là vì Minh Việt hay những người trẻ nói chung, mà vì những người già nhiều hơn.
Những người già trong đời mình là lý do tôi trở về Việt Nam nhiều hơn. Bố mẹ càng lớn tuổi thì sự mong muốn gần gũi Việt Nam lại càng thúc đẩy trong tôi.
Tôi là đứa trẻ Việt Nam, dù có đi đâu về đâu, thành đạt như thế nào vẫn luôn tâm niệm chính mình phải là người chăm sóc, đảm bảo nhân phẩm cho bố mẹ khi bố mẹ già.
Tôi nghĩ đó là một sự hãnh diện, một đặc quyền, một đặc ân khi mà bố mẹ lớn tuổi mình có điều kiện kinh tế, thời gian để mình ở cạnh chăm sóc cho họ sạch sẽ, được nằm nghỉ ngơi ở nơi khô ráo mát mẻ, và giữ cho đời sống tinh thần tỉnh táo lâu nhất có thể.
Đó là mong muốn lớn nhất trong lòng tôi bây giờ và mở rộng ra không chỉ cho bố mẹ tôi, mà còn cả bố mẹ vợ hay kể cả bà thông gia, mẹ vợ của em ruột tôi, tôi cũng đưa họ vào trong cùng một quỹ đạo mà tôi nghĩ mình cần phải có trách nhiệm chăm sóc cho họ lúc tuổi già.
Trong đầu tôi có cảm giác rất mát mẻ khi nghĩ về những ngày tháng rời hết hành trình thế giới để quay về quê hương. Tôi thấy vui vì từng có lúc nào đó ở trong Nhà Trắng – điểm 0 của quyền lực thế giới, cùng khênh chiếc ghế với Tổng thống Barack Obama, vừa đi vừa nói chuyện, rồi xa rời hết vinh quang đó, tôi lại vui vẻ quay trở về làm một người bình thường chăm sóc cho bố mẹ và những người lớn tuổi trong đời mình.
Khi bố mẹ nằm đó ốm đau, tôi mong sẽ được tận tay lau dọn những thứ vệ sinh của họ. Tôi không thấy ngần ngại gì, không thấy xấu xí gì cả. Lòng phụng sự, theo tôi, là để chăm sóc cho người nghèo, người ốm yếu và lòng phụng sự đó hay bất kỳ tinh thần từ thiện nào khác cũng phải đến đầu tiên từ gia đình. Mình phải có trách nhiệm làm tốt cho gia đình mình, nhất là thời gian bố mẹ hai bên gia đình và cả những người khác mình thương quý ốm đau, thì mình cũng phải chăm sóc cho họ.
Đó là lý do vì sao Việt Nam chiếm trọn trong trái tim tôi. Hôm trước, tôi có nói với vợ và hai con rằng, bây giờ mọi cố gắng để thành công trên thế giới coi như đã xong rồi. Việc chính bây giờ là lập kế hoạch cho những năm sắp tới để làm sao tôi được làm một người chăm sóc tốt cho những người lớn tuổi ở trong đời.
Ông Phạm Tuấn Anh có may mắn nhờ công việc, nên đã nhiều lần được vào Nhà Trắng và đi hết gần như toàn bộ các phòng họp chính ở đây.
Khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trong làm việc tại Hoa Kỳ năm 2015, ông Phạm Tuấn Anh trong vai trò là người phiên dịch của Tổng thống Obama ngồi quay lưng lại cái lò sưởi trên có chân dung Tổng thống George Washington trong phòng Bầu Dục của Nhà Trắng. Có lần khác lúc ban đêm trời mưa to ông được gọi vào Nhà Trắng, được giao làm việc một mình trong phòng Tình huống (Situation room) của Nhà Trắng. Số lần ông tới Nhà Trắng đủ nhiều để ông quen thuộc với một vài thủ tục, cách thức, con người ở đó.
Điều ông hay tự hỏi là điều gì đã giúp cho một đứa trẻ con nhà nghèo Hà Nội được lai vãng đến trung tâm của quyền lực thế giới? Ông nghĩ vậy và trong lòng luôn tràn ngập cảm giác biết ơn năng lực siêu nhiên, tâm linh nào đó đã dẫn dắt cuộc đời mình đi xuyên qua bao ma trận để đến được nơi đồng xanh có hoa trái ngọt lành và kết quả.
Khi ở những nơi đó, lòng ông không lúc nào có cảm giác tự hào, tự mãn, mà luôn là cảm giác biết ơn, cảm giác ý thức được là mình đang ở sát gần, ở bên, ở trong lịch sử. Biết bao nhiêu trang sử của đất nước Việt Nam quê hương được viết ra bởi những quyết định đưa ra trong chính căn phòng, tòa nhà đó. Lịch sử của đau thương, mất mát, của những cuộc chiến sống còn, của con người vượt lên trên số phận khiến ông luôn thấy nhỏ bé, khiêm nhường ở sâu trong lòng.
Hơn ba mươi năm qua của cuộc đời ông là một hành trình ánh sáng, hành trình cá nhân thật dài, thật có ý nghĩa, với thành công bất ngờ khi so sánh với những điều kiện rất ít ỏi ông có khi khởi hành. Ngày đó, một cái bánh mì ăn mỗi ngày cũng không phải dễ có. Ấy thế mà ông đã đi được thật xa như thế này.
Sự biết ơn những ánh sáng soi đường khiến ông tự đặt trách nhiệm đạo đức cho mình là ba mươi năm tới phải giúp được nhiều người Việt Nam đi ra thế giới thành công hơn nữa. Để rồi đến lượt họ sẽ hướng về, trở về phụng sự đất nước Việt Nam giúp cho quê hương ngày càng giàu mạnh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét